Chồng và nhân viên ngân hàng tự làm hồ sơ vay giả chữ ký thì có kiện được không

Câu hỏi của khách hàng: Chồng và nhân viên ngân hàng tự làm hồ sơ vay giả chữ ký thì có kiện được không

em xin chào các luật sư a. Em muốn hỏi là năm 2015 em có vay của ngân hàng 70 triệu đến tháng 12 năm 2016 em có đưa nốt số tiền là 25 triệu để trả hết sau đó em không ký vay nữa vậy mà bây giờ em biết được chồng mình lại vay ngân hàng 200 triệu mà ảo chữ kí của em và bố mẹ em vậy nhân viên ngân hàng làm vậy có sai không khi không đến nhà em để làm lại hồ sơ và lấy chữ kí của em và gia đình .Các luật sư cho em hỏi em có thể kiện nhân viên ngân hàng đó không ạ .Em xin cảm ơn


Luật sư Tư vấn Bộ luật dân sự – Gọi 1900.0191

Dựa trên thông tin được cung cấp và căn cứ vào các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, các cam kết, thỏa thuận quốc tế được ký kết nhân danh Nhà nước, Chính phủ Việt Nam.

1./ Thời điểm tư vấn: 04/01/2019

2./ Cơ sở Pháp Luật điều chỉnh vấn đề Giá trị của hợp đồng vay khi chữ ký là giả

Bộ luật Dân sự 2015

3./ Luật sư trả lời Chồng và nhân viên ngân hàng tự làm hồ sơ vay giả chữ ký thì có kiện được không

Theo thông tin bạn cung cấp thì bạn có vay của ngân hàng 70 triệu  vào  năm 2015 đến tháng 12 năm 2016 bạn trả nốt số tiền là 25 triệu và không ký vay nữa. Nói cách khác, việc thanh toán nợ của bạn cho ngân hàng theo hợp đồng vay mà các bên đã ký trước đó đã hoàn tất. Hai bên không còn gì ràng buộc. Khi chồng của bạn vay 200 triệu của Ngân hàng và giả chữ ký của bạn, việc nhân viên ngân hàng vẫn xác lập thỏa thuận vay tiền có đúng hay không còn phụ thuộc vào việc giả chữ ký này được thực hiện như thế nào, lỗi cũng như vai trò của chính chủ thể trên.

Trong trường hợp việc vay tiền trên có sự giả chữ ký của bạn và bạn chứng minh được đây là chữ ký giả thì bạn sẽ không có nghĩa vụ trả nợ (nợ gốc và nợ lãi) theo hợp đồng vay tiền. Khoản nợ trên sẽ được xác định là khoản nợ của chồng của  bạn (chồng của bạn là người đã ký kết hợp đồng).

Tuy nhiên, việc bạn chứng minh được đây là chữ ký giả không phải là căn cứ để hợp đồng trên vô hiệu toàn bộ, cũng không phải là căn cứ để bạn khởi kiện nhân viên ngân hàng khi người này không biết về việc giả chữ ký trên.

Như khi xác lập hợp đồng vay tiền trên, chồng của bạn đã có hành vi nhờ một người đóng giả bạn để ký hợp đồng vay trước nhân viên ngân hàng. Lúc này, việc nhân viên ngân hàng không biết về việc đây là chữ ký giả và vẫn xác lập hợp đồng vay tiền, cho chồng của bạn vay tiền hoàn toàn hợp lý, không phải là hành vi vi phạm pháp luật. Do đó, bạn không thể khởi kiện nhân viên ngân hàng. Tuy nhiên, bạn lại có thể phản ánh việc này với chính ngân hàng để ngân hàng tiến hành xử lý nội bộ.

Trong trường hợp, việc nhân viên ngân hàng xác lập hợp đồng trong khi biết có việc giả mạo để được hưởng lợi ích nào đó thì tùy thuộc vào mức độ nguy hiểm của hành vi mà người này thực hiện (nhất là khoản lợi ích mà họ nhận được), người  này sẽ bị xử lý hành chính hoặc thậm chí là hình sự do thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản.

Còn về việc khởi kiện, bạn chỉ có thể khởi kiện nhân viên ngân hàng khi bạn chứng minh được rằng hành vi của người này đã gây thiệt hại cho bạn (về danh dự, nhân phẩm, tài sản,…).

Tuy nhiên, việc người này để xảy ra việc xác lập giao dịch trên chữ ký giả (với lỗi vô ý hoặc cố ý nhưng không đến mức phải gánh chịu trách nhiệm hình sự) lại là cơ sở để bạn chính Ngân hàng xử phạt nhân viên này (có thể vì lý do thiếu trách nhiệm trong công việc,…).

Như vậy, trong trường hợp của bạn, khi  bạn chứng minh được đây là chữ ký giả, bạn sẽ không bị xác định là một trong những chủ thể xác lập giao dịch, bạn không có nghĩa vụ phát sinh trên hợp đồng vay tiền trên. Việc khởi kiện nhân viên ngân hàng do đã xác lập hợp đồng vay tiền còn tùy thuộc vào hành vi cụ thể của người này. Nếu chỉ xác định trên việc người này vẫn xác lập hợp đồng ngay cả khi chữ ký là giả thì bạn chỉ có thể làm đơn phản ánh tới Ngân hàng để ngân hàng xử lý nội bộ với  hành vi thiếu trách nhiệm của nhân viên.

Với những tư vấn trên, Công ty Luật LVN mong rằng đã có thể giải đáp được nhu cầu của quý khách, nếu quý khách vẫn còn chưa rõ hoặc có thông tin mới với trường hợp này, quý khách có thể liên hệ Bộ phận Tư vấn pháp luật Miễn phí số: 1900.0191 để được Luật sư hỗ trợ ngay lập tức.

1900.0191