Có quy định giới hạn các khoản trợ cấp không?

Câu hỏi của khách hàng: Có quy định giới hạn các khoản trợ cấp không?

Em chào anh/chị.
Trường hợp người sử dụng lao động quy định các khoản trợ cấp ăn trưa, xăng xe, điện thoại, nhà ở,… Để giảm mức lương cơ bản. Vậy những khoản này có bị giới hạn định mức không hay doanh nghiệp muốn quy định như thế nào cũng được ạ. Và nếu có thì được quy định ở đâu ạ?
Em cảm ơn/ chị rất nhiều.


Luật sư Tư vấn Bộ luật lao động – Gọi 1900.0191

Dựa trên thông tin được cung cấp và căn cứ vào các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, các cam kết, thỏa thuận quốc tế được ký kết nhân danh Nhà nước, Chính phủ Việt Nam.

1./ Thời điểm tư vấn: 09/01/2019

2./ Cơ sở Pháp Luật điều chỉnh vấn đề Mức trần của phụ cấp cho người lao động

  • Bộ luật Lao động 2012
  • Nghị định 05/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật lao động

3./ Luật sư trả lời Có quy định giới hạn các khoản trợ cấp không?

Bạn đang thắc mắc về định mức những khoản trợ cấp mà công ty (hay người sử dụng lao động – NSDLĐ) dành cho nhân viên của mình (hay người lao động – NLĐ). Với câu hỏi này chúng tôi xin trả lời như sau:

Trợ cấp là những khoản tiền ngoài mức lương theo công việc mà NLĐ được nhận để phục vụ cho công việc như trợ cấp ăn trưa, xăng xe, điện thoại, nhà ở,… Những khoản trợ cấp này do NSDLĐ chi trả và được pháp luật quy định tại Bộ luật lao động và các văn bản pháp luật liên quan.

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 21 Nghị định 05/2015/NĐ-CP thì ngoài mức lương theo công việc hoặc chức danh, người sử dụng lao động có thể thỏa thuận với  người lao động về việc trả thêm phụ cấp hoặc các khoản bổ sung khác để người lao động thực hiện công việc nhất định. Trong đó, phụ cấp lương được hiểu là khoản tiền bù đắp các yếu tố về điều kiện lao động, tính chất phức tạp của công việc, điều kiện sinh hoạt, mức độ thu hút lao động chưa được tính đến hoặc tính chưa đầy đủ trong mức lương theo công việc hoặc chức danh. Các khoản bổ sung khác được hiểu là khoản tiền bổ sung ngoài mức lương, phụ cấp lương và có liên quan đến thực hiện công việc hoặc chức danh trong hợp đồng lao động, trừ tiền thưởng, tiền ăn giữa ca, các khoản hỗ trợ, trợ cấp của người sử dụng lao động không liên quan đến thực hiện công việc hoặc chức danh trong hợp đồng lao động.

Theo đó, những khoản tiền trợ cấp ăn trưa, xăng xe, điện thoại, nhà ở,… được tính vào tiền lương của người lao động.

Căn cứ Điều 102 Bộ luật Lao động 2012:

Điều 102. Chế độ phụ cấp, trợ cấp, nâng bậc, nâng lương

Các chế độ phụ cấp, trợ cấp, nâng bậc, nâng lương và các chế độ khuyến khích đối với người lao động được thoả thuận trong hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể hoặc quy định trong quy chế của người sử dụng lao động.”

Mà theo quy định tại điểm đ Khoản 1 Điều 23 Bộ luật lao động thì trong hợp đồng lao động phải có nội dung về “mức lương, hình thức trả lương, thời hạn trả lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác”.

Vậy, ta có thể thấy chế độ trợ cấp mà bạn đưa ra là một nội dung được quy định trong hợp đồng lao động. Ngoài ra, nội dung này còn được quy định tại thỏa ước lao động tập thể, quy chế của người sử dụng lao động.

Việc quy định về các khoản trợ cấp trong hợp đồng lao động hoặc trong quy chế của công ty là căn cứ xem xét khoản trợ cấp đó có được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp hay không.

Tuy nhiên, hiện nay lại chưa có một quy định cụ thể nào giới hạn mức trần của những khoản trợ cấp trên. Mức trợ cấp này được xem xét trên sự thỏa thuận của người lao động và người sử dụng lao động. Tuy nhiên, việc cố ý ghi số tiền này lên cao, không đúng với thực tế để trốn tránh các nghĩa vụ với bên thứ ba lại là hành vi vi phạm pháp luật. Chủ thể có hành vi vi phạm sẽ phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi nếu thực hiện những hành vi này.

Như vậy, trong trường hợp của bạn, việc trợ cấp này được quy định bởi các văn bản pháp luật về lao động như Bộ luật lao động, các nghị định hướng dẫn Bộ luật Lao động mức trợ cấp trên không bị giới hạn trần bởi các quy định hiện nay nhưng việc cố tình ghi sai thực tế để trốn tránh nghĩa vụ thuế, nghĩa vụ với bên thứ ba lại là hành vi vi phạm pháp luật. Tùy theo mức độ  nghiêm trọng, người có hành vi sẽ phải chịu những trách nhiệm nhất định theo quy định của pháp luật.

Với những tư vấn trên, Công ty Luật LVN mong rằng đã có thể giải đáp được nhu cầu của quý khách, nếu quý khách vẫn còn chưa rõ hoặc có thông tin mới với trường hợp này, quý khách có thể liên hệ Bộ phận Tư vấn pháp luật Miễn phí số: 1900.0191 để được Luật sư hỗ trợ ngay lập tức.

1900.0191