Đất mua bằng tiền thừa kế, khi bán có phải chia cho những người con khác

Câu hỏi của khách hàng: Đất mua bằng tiền thừa kế, khi bán có phải chia cho những người con khác

Luật sư tư vấn giúp em với ạ.
Chuyện là ba mẹ em sống chung với ông nội, ông nội mất không để lại di chúc gì. Năm vừa rồi nhà ba mẹ em ở thuộc diện giải tỏa, bồi thường 350 triệu. Ông bà nội em có 6 người con (4 gái 2 trai) nên ba em chia số tiền đó làm 6 phần. Bà cô thứ 10 với ông chú út lấy đủ, còn 3 bà cô kia thì lấy ít còn ít cho ba em xây nhà. Nhà nước bán lại cho ba em miếng đất tái định cư 70 triệu, nhưng do lúc trước họp gia đình thống nhất là để xây nhà từ đường nên miếng đất đó sổ đỏ ba với chú em đứng tên. Chú em kiện rồi tòa xử ba em phải đưa cho chú 40 triệu, giờ sổ đỏ ba em đứng tên. Do miếng đất đó nhỏ với không đủ tiền xây nhà nên ba em có bán 1 miếng đất bên ngoại cho với đem sổ đỏ miếng đất này vay tiền ngân hàng mua 1 miếng đất khác ở. Cách đây 1 tháng ba em bán miếng đất tái định cư đi, có cho 3 bà cô kia mỗi người 30 triệu mà không chịu lấy đòi ba em chia tiền bán đất kia. Ba em không chịu 3 bà cô đâm đơn kiện ba em nên, cái bà mua đất kia lúc mua thì không chịu làm sổ đỏ giờ có đơn kiện nên nhà nước không cho sang tên sổ đỏ. Bà đó bây giờ đòi kiện ba em nữa, do cũng không rành về mấy cái luật nên em viết bài mong các luật sư tư vấn giúp đỡ gia đình em. Em cảm ơn


Luật sư Tư vấn Luật đất đai – Gọi 1900.0191

Dựa trên thông tin được cung cấp và căn cứ vào các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, các cam kết, thỏa thuận quốc tế được ký kết nhân danh Nhà nước, Chính phủ Việt Nam.

1./ Thời điểm tư vấn: 01/11/2018

2./ Cơ sở Pháp Luật điều chỉnh vấn đề Xác định di sản khi có tài sản khác phát sinh

  • Bộ luật dân sự năm 2015
  • Luật đất đai năm 2013

3./ Luật sư trả lời Đất mua bằng tiền thừa kế, khi bán có phải chia cho những người con khác

Di sản được hiểu là tài sản của người chết, gồm tài sản riêng của người chết và phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác. Khi người để lại di sản chết không có di chúc thì việc phân chia di sản sẽ được chia thừa kế theo pháp luật.

Dựa trên những thông tin bạn đã cung cấp thì ngôi nhà mà ba của bạn ở và đã được bồi thường 350 triệu đồng khi nhà nước giải tỏa được xác định là di sản của ông bà bạn. Và những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất ở đây được xác định là các con của ông bà của bạn. Tức là có 6 người. Nên, về mặt pháp luật, số tiền 350 triệu đồng kia phải được chia thành 6 phần bằng nhau và mỗi người thừa kế được hưởng một phần, trừ trường hợp có thỏa thuận khác giữa những người thừa kế.

Mà, trong trường hợp này ba của bạn được đã chia số tiền trên thành 6 phần để đưa cho những người có quyền thừa kế thuộc hàng thứ nhất (trong đó có cả ba của bạn) theo quy định của pháp luật. Trong đó, có hai người đã nhận đủ (một người cô và một người chú), còn ba người lấy một ít còn để lại để ba bạn xây nhà từ đường. Việc này cũng giống như họ gửi lại một phần số tiền thừa kế cho ba của bạn quản lý, sử dụng.

Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật thì việc chia di sản khi người để lại di sản không có di chúc phải được Tòa án công nhận bằng một quyết định, bản án có hiệu lực pháp luật.

Do vậy, về mặt pháp lý, việc phân chia số tiền 350 triệu đồng của ba bạn không được công nhận là phân chia di sản.

Nhưng, về mảnh đất tái định cư mà Nhà nước bán cho ba của bạn với giá 70 triệu đồng. Căn cứ điểm c Khoản 2 Điều 83 Luật đất đai thì việc hỗ trợ tái định cư chỉ được thực hiện trong trường hợp thu hồi đất mà phải di chuyển chỗ ở. Mà theo những chi tiết mà bạn đưa ra thì mảnh đất hỗ trợ tái định cư trên được giao cho ba của bạn và người chú. Theo đó, chỉ có ba của bạn cùng người chú đó là có quyền đối với mảnh đất.

Nhưng, sau đó, ba của bạn và người chú có xảy ra tranh chấp và yêu cầu Tòa án xử lý. Tòa án đã yêu cầu ba của bạn đưa cho người chú 40 triệu và hiện giờ, ba của bạn là người đứng tên duy nhất của mảnh đất. Nên, đến lúc này, ba của bạn là chủ sở hữu duy nhất của mảnh đất.

Khi là chủ sở hữu duy nhất của mảnh đất, ba của bạn hoàn toàn có toàn quyền định đoạt tài sản trên (có quyền bán, thế chấp ngân hàng,…). Do vậy, về mặt pháp luật, khi ba của bạn bán mảnh đất trên, số tiền ba của bạn nhận được hoàn toàn không phải chia cho một người nào khác. Trừ trường hợp số tiền mà ba của bạn dùng để mua đất được chứng minh là từ số tiền 350 triệu đồng (-di sản mà ông bà bạn để lại).

Còn việc, do hiện giờ có tranh chấp đất mà người mua mảnh đất trên không làm được sổ đỏ. Đây không phải lỗi của ba của bạn. Tòa án sẽ chỉ giải quyết yêu cầu của người mua nếu người này chứng minh được trong hợp đồng giữa họ và ba của bạn, ba của bạn có thỏa thuận sẽ chịu trách nhiệm cho tới khi sổ đỏ được cấp.

Tuy nhiên, nếu nhìn nhận trên những chi tiết bạn nêu thì khi ba của bạn bán mảnh đất, tranh chấp không tồn tại (nên mới chuyển quyền được). Và khi đó, bên mua hoàn toàn có thể xin Nhà nước cấp Giấy chứng nhận, nhưng người này lại không làm. Do đó, ba của bạn sẽ không phải chịu trách nhiệm về việc này. Thông thường, Tòa án sẽ không thụ lý giải quyết yêu cầu khởi kiện trên của bên mua đất.

Để giải quyết tranh chấp trên, ba của bạn có thể yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về việc chia di sản mà ông, bà của bạn để lại (số tiền 350 triệu). Sau đó, các bên thực hiện việc chia di sản như nội dung của bản án/ quyết định của Tòa. Tới đây, quyền của những người còn lại sẽ bị giới hạn trong số tài sản mà những người này nhận được. Họ sẽ không có quyền yêu cầu ba của bạn chia cho họ những khoản tiền khác phát sinh ngoài bản án/ quyết định của Tòa án.

Như vậy, trong trường hợp bạn đưa ra, ba của bạn chỉ là bên không đúng khi bên kia chứng minh được số tiền 70 triệu mà ba bạn dùng để mua đất là từ số di sản ông bà để lại, và những người thừa kế đó phải được xác định là đồng chủ sở hữu mảnh đất trên. Nếu không, số tiền ba của bạn nhận được khi bán mảnh đất hỗ trợ tái định cư không phải chia cho bất kỳ người nào cả.

Với những tư vấn trên, Công ty Luật LVN mong rằng đã có thể giải đáp được nhu cầu của quý khách, nếu quý khách vẫn còn chưa rõ hoặc có thông tin mới với trường hợp này, quý khách có thể liên hệ Bộ phận Tư vấn pháp luật Miễn phí số: 1900.0191 để được Luật sư hỗ trợ ngay lập tức.

1900.0191