Lấy xe đạp của mà người khác bỏ quên thì có phải chịu trách nhiệm hình sự không?

Lấy xe đạp của mà người khác bỏ quên thì có phải chịu trách nhiệm hình sự không?

Cách đây 3 tuần tôi có chuyển sang nhà trọ mới. Tuy nhiên, đến nay tôi mới nhớ ra là tôi để quên chiếc xe đạp (giá từ 2 – 3 triệu đồng) ở nhà trọ cũ. Bây giờ khi liên hệ lại thì chiếc xe đạp không còn nữa. Nhà trọ cũ có 4 phòng, tức 8 người ở trọ, bao gồm cả chủ trọ. Vậy xin hỏi, nếu cơ quan công an điều tra ra người lấy chiếc xe đạp thì người đó sẽ bị buộc tội gì?

Gửi bởi: Nguyễn Thị Minh Đàn

Trả lời có tính chất tham khảo

Người phát hiện chiếc xe đạp mà bạn bỏ quên được coi là người chiếm hữu ngay tình. Theo quy định tại Điều 187 của Bộ luật dân sự thì người phát hiện tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu, bị chìm đắm bạn có trách nhiệm phải thông báo hoặc trả lại ngay cho chủ sở hữu; nếu không biết ai là chủ sở hữu thì phải thông báo hoặc giao nộp cho Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc công an cơ sở gần nhất hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác theo quy định của pháp luật. Theo đó, người phát hiện được chiếc xe đạp bạn bỏ quên có trách nhiệm thông báo hoặc trả lại ngay cho bạn; nếu không biết chiếc xe đạp đó là của bạn thì có trách nhiệm thông báo hoặc giao nộp điện thoại đến UBND xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan công an gần nhất. Chiếc xe đạp trên không thuộc quyền sở hữu của họ nên họ không có quyền bán, định đoạt. Căn cứ vào Điều 257 của Bộ luật dân sự, “Chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản; trong trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu”.

Trường hợp người đã chiếm giữ tài sản của người khác cố tình không trả lại mặc dù đã được yêu cầu trả lại thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc bị xử lý hành chính, cụ thể như sau:

– Theo quy định tại Điều 141 của Bộ luật hình sự thì người nào cố tình không trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc không giao nộp cho cơ quan có trách nhiệm tài sản có giá trị từ mười triệu đồng trở lên, cổ vật hoặc vật có giá trị lịch sử, văn hoá bị giao nhầm hoặc do mình tìm được, bắt được, sau khi chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc cơ quan có trách nhiệm yêu cầu được nhận lại tài sản đó theo quy định của pháp luật, thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chiếm giữ trái phép tài sản và có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm. Trường hợp phạm tội chiếm giữ tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng trở lên hoặc cổ vật, vật có giá trị lịch sử, văn hoá có giá trị đặc biệt, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.

– Trường hợp chưa đủ mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì sẽ bị xử phạt hành chính là phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 15 của Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình.

Trường hợp mà bạn nêu, nếu như người đã lấy chiếc xe đạp của bạn cố tình không trả lại chiếc xe đạp cho bạn mặc dù được yêu cầu trả lại thì người đó sẽ bị xử phạt hành chính (vì giá trị của tài sản chưa đủ mức để truy cứu trách nhiệm hình sự).

Các văn bản liên quan:

Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự (Còn hiệu lực)

Bộ luật 15/1999/QH10 Hình sự (Hết hiệu lực một phần)

Nghị định 167/2013/NĐ-CP Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống, chống bạo lực gia đình (Còn hiệu lực)

Trả lời bởi: Nguyễn Thị Phương Liên – Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật

1900.0191