Tố cáo hành vi vu khống của người khác

Tố cáo hành vi vu khống của người khác

Vợ tôi có vay giúp bạn một số tiền, bạn vợ tôi không có khả năng trả tiền mặt, đã trả bằng đất. Nay vợ tôi trả đất cho người có tiền cho vay, họ không nhận. Bắt vợ tôi trả bằng tiền mặt hoặc ép giá đất bằng một nửa giá trị mà bạn vợ tôi đã trả. Hiện người vay làm đơn tố cáo tôi là lợi dụng tín nhiệm lừa đảo, lợi dụng tín nhiệm để chiếm đoạt tài sản, bôi nhọ danh dự của tôi trước tổ chức Đảng và cơ quan tôi đang công tác. Vậy tôi phải làm gì để minh oan và tôi có thể tố cáo lại tội vu khống không?

Gửi bởi: Nguyễn Đức Long

Trả lời có tính chất tham khảo

Chào anh,

1. Với việc vợ anh có vay giúp bạn một số tiền, bạn vợ anh không có khả năng trả tiền mặt và đã trả bằng đất. Nay vợ anh trả đất cho người có tiền cho vay, nhưng người cho vay không nhận và bắt vợ anh phải trả bằng tiền mặt hoặc ép giá đất bằng một nửa giá trị mà bạn vợ anh đã trả hoàn toàn là quan hệ dân sự về hợp đồng vay tài sản và các bên liên quan phải sử dụng các quy định của pháp luật dân sự (Bộ luật Dân sự năm 2005) để giải quyết và nếu không giải quyết được các bên liên quan có thể khởi kiện ra Tòa án nhân dân để giải quyết theo quy định của pháp luật.

2. Còn đối với việc người vay làm đơn tố cáo anh là lợi dụng tín nhiệm lừa đảo, lợi dụng tín nhiệm để chiếm đoạt tài sản, bôi nhọ danh dự của anh trước tổ chức Đảng và cơ quan anh đang công tác hoàn toàn là hành vi vi phạm pháp luật, bởi lẽ anh không có liên quan đến vụ việc nói trên (mặc dù anh là chồng của người vay tiền tức vợ anh, nhưng việc vay tiền này là việc riêng của vợ anh).

Bên cạnh đó, nếu hành vi tố cáo, bôi nhọ danh dự của người vay đối với anh nói trên đủ yếu tố cấu thành tội vu khống theo quy định tại Điều 122 Bộ luật Hình sự năm 1999 thì người này sẽ bị trừng trị theo quy định của pháp luật, cụ thể như sau:

“1. Người nào bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến bảy năm:

a) Có tổ chức;

b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

c) Đối với nhiều người;

d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình;

đ) Đối với người thi hành công vụ;

e) Vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một triệu đồng đến mười triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”.

Như vậy, đầu tiên anh cần khai báo với chính quyền, công an, cơ quan đoàn thể về vụ việc nói trên nhằm làm rõ vụ việc và anh hoàn toàn có thể tố cáo người vay về hành vi vu khống người khác./.

Các văn bản liên quan:

Bộ luật 15/1999/QH10 Hình sự

Trả lời bởi: Thạc sỹ Ngô Thanh Xuyên

1900.0191