Kinh nghiệm cho Việt Nam xem xét từ vụ Philippines kiện Trung Quốc đối với tranh chấp ở Biển Đông

Kinh nghiệm cho Việt Nam xem xét từ vụ Philippines kiện Trung Quốc đối với tranh chấp ở Biển Đông

04/07/2014

1. Tình hình Biển Đông

Vào ngày 02/ 05/ 2014, Trung Quốc đã đưa dàn khoan HD 981 cùng với sự hộ tống, trong đó có cả tàu chiến và máy bay quân sự bảo vệ vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Các tàu hộ tống bảo vệ giàn khoan của Trung Quốc đã rất hung hăng bắn vòi nước có cường độ mạnh và đâm húc thẳng vào các tàu công vụ, tàu dân sự của Việt Nam, gây hư hại nhiều tàu và làm nhiều người bị thương. Hành động này đã vi phạm đặc biệt nghiêm trọng đến quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa theo luật pháp quốc tế, Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982[1] (viết tắt là UNCLOS), đi ngược lại Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông DOC[2] và những thỏa thuận cấp cao giữa Việt Nam và Trung Quốc.

Những hành động này của Trung Quốc này đã làm leo thang căng thẳng, đe dọa đến hòa bình, an ninh quốc tế, ảnh hưởng đến an ninh, an toàn và tự do hàng hải của các quốc gia trong khu vực, đồng thời thể hiện rõ nét chính sách của Trung Quốc trong việc chống lại các quốc gia khác có tranh chấp chủ quyền các đảo, quần đảo và các vùng biển trong biển Đông với Trung Quốc. Nhận định về vấn đề này, trong cuộc trả lời phỏng vấn báo Financial Times, Tổng thống Philippines, ông Benigno Aquino nói rằng, Trung Quốc đang chơi “một cuộc chơi nguy hiểm của chính sách “bên miệng hố chiến tranh” và “ngoại giao họng súng” có thể vượt khỏi tầm kiểm soát[3].

Trước tình hình trên, chính phủ Việt Nam nhất quán theo đuổi chính sách giải quyết tranh chấp trên Biển Đông bằng việc sử dụng các biện pháp hòa bình. Trong bài trả lời phỏng vấn gần đây của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng với hãng tin AP và Reuters về Biển Đông bày tỏ quan điểm rằng Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền và lợi ích chính đáng của mình vì chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo là thiêng liêng và Việt Nam đang cân nhắc các phương án để bảo vệ mình, kể cả phương án đấu tranh pháp lý, theo luật pháp quốc tế[4]. Tại phiên họp Chính phủ thường kỳ ngày 29/5/2014, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nêu rõ chủ trương nhất quán với ba nhóm biện pháp đấu tranh:

Thứ nhất, sử dụng các lực lượng thực thi pháp luật trên thực địa để bảo vệ và khẳng định chủ quyền biển đảo của Việt Nam;

Thứ hai, đấu tranh bằng con đường chính trị, ngoại giao, kiên quyết yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan Hải Dương 981 ra khỏi vùng biển Việt Nam.

Thứ ba, đấu tranh bằng dư luận, thông tin trung thực cho nhân dân và cộng đồng quốc tế hiểu rõ hành vi xâm phạm lãnh thổ của Trung Quốc cũng như các biện pháp đấu tranh hòa bình của Việt Nam; kêu gọi cộng đồng quốc tế lên án mạnh mẽ hành vi vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế của Trung Quốc[5].

Ngoại giao pháp lý là biện pháp thích hợp cho Việt Nam để đấu tranh với Trung Quốc tại thời điểm này để bảo vệ chủ quyền biển đảo, trước hành vi xâm phạm vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam trong vụ dàn khoan HD 981. Đồng thời, Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và pháp lý để chứng minh việc chiếm hữu thực sự và khẳng định chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ thế kỷ XVII. Tuy vậy, Việt Nam cần nghiên cứu kỹ lưỡng việc lựa chọn cơ quan tài phán thích hợp để khởi kiện cũng như nội dung khởi kiện Trung Quốc để đảm bảo một thắng lợi pháp lý, bảo vệ chính đáng quyền lợi của Việt Nam theo quy định của luật pháp quốc tế và Công ước Luật Biển năm 1982, là cơ sở quan trọng để giải quyết tranh chấp trên Biển Đông giữa Trung Quốc và các bên tranh chấp khác. Việc nghiên cứu các án lệ quốc tế có liên quan và đặc biệt vụ Philippines kiện Trung Quốc trong tranh chấp Biển Đông sẽ là bài học kinh nghiệm khi Việt Nam đang xem xét sử dụng các cơ quan tài phán quốc tế để giải quyết tranh chấp ở Biển Đông.

2. Vụ Philippines kiện Trung Quốc ra Tòa án Trọng tài UNCLOS

Để giải quyết tranh chấp trên Biển Đông, nỗ lực nổi bật gần đây giữa các bên tranh chấp là việc Philippines kiện Trung Quốc ra Tòa án Trọng tài được thành lập và hoạt động dựa trên các quy định trong Phụ lục VII của UNCLOS vào ngày 22/01/2013. Mặc dù Trung Quốc từ chối tham gia vụ kiện và gửi thông báo tới Philippines và Tòa án Trọng tài thường trực, nơi thụ lý quá trình đăng ký thủ tục vụ kiện[6]. Tuy nhiên, quá trình pháp lý vẫn tiếp tục, một Ủy ban Trọng tài đã được chỉ định và triệu tập, ngày 30/3/2014 Philippines hoàn tất các đệ trình cuối cùng tới tòa liên quan cả đến thẩm quyền tòa án và nội dung thực chất của tranh chấp.

Trong Tuyên bố khởi kiện của Philipines lên Tòa án Trọng tài UNCLOS gồm có ba vấn đề chính: (1) Liên quan đến những hành vi xâm lấn của Trung Quốc vi phạm quyền chủ quyền (quyền hàng hải, khai thác tài nguyên..) trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Philippines; (2) Việc chiếm giữ các bãi san hô nhỏ, không đủ điều kiện trở thành đảo để yêu sách vùng nước xung quanh xâm phạm vào vùng đặc quyền kinh tế của Philippines; (3) Tuyên bố “đường chín đoạn” của Trung Quốc không có giá trị pháp lý quốc tế và việc Trung Quốc tiến hành xây dựng các công trình nhân tạo trên các bãi chìm, mỏm đá, bãi cạn nửa nổi nửa chìm xâm phạm khu vực thềm lục địa của Philippines.

Việc Trung Quốc không tham gia vụ kiện thể hiện chính sách giải quyết tranh chấp Biển Đông với các bên theo con đường song phương và loại trừ việc tham gia của bất kỳ một bên thứ ba nào khác. Điều này cũng thể hiện thái độ của Trung Quốc là né tránh việc sử dụng luật pháp quốc tế, Công ước Luật Biểnnăm 1982 và việc yếu thế về cơ sở pháp lý trong các yêu sách chủ quyền phi lý của Trung Quốc trên Biển Đông.

Theo nhận xét của Giáo sư Carl Thayer[7], dù Trung Quốc không tham gia vụ kiện, thì tòa trọng tài thụ lý vụ kiện và nếu phán quyết của tòa có lợi cho Philippines, thì điều này sẽ có tác động lên cơ sở pháp lý về tuyên bố “đường chín đoạn” gây tranh cãi của Trung Quốc trên Biển Đông.

Thực tiễn giải quyết tranh chấp của Philippines sẽ là kinh nghiệm quý báu cho các quốc gia khác trong tranh chấp với Trung Quốc. Theo Điều 11 Phụ lục VII của UNCLOS, phán quyết của trọng tài chỉ có giá trị ràng buộc đối với các bên liên quan, tuy nhiên phán quyết của một cơ quan tài phán quốc tế được xem là án lệ, một nguồn bổ trợ trong luật pháp quốc tế. Việc Philippines khởi kiện Trung Quốc đánh dấu lần đầu tiên tranh chấp trên biển Đông được đưa ra trước một cơ quan tài phán quốc tế. Vì vậy, Việt Nam có thể học hỏi từ vụ khởi kiện này để bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán hợp pháp của mình đối với các vùng biển, các đảo, quần đảo và khẳng định với dư luận quốc tế về những hành vi phi pháp và phi lý của Trung Quốc, xem thường luật pháp quốc tế trên Biển Đông.

3. Bài học về lựa chọn thủ tục tài phán theo UNCLOS

Nguyên tắc căn bản của luật pháp quốc tế được quy định tại Điều 33 Hiến chương Liên Hợp Quốc và UNCLOS là bắt buộc giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hoà bình[8]. UNCLOS cho phép các bên lựa chọn (Điều 279, Điều 280) phương pháp hòa bình, do đó, việc ai đó đe doạ sử dụng hay sử dụng vũ lực có hại đến tài sản và thân thể người thuộc quốc gia khác trong tranh chấp biển là vi phạm Hiến chương Liên Hợp Quốc và UNCLOS. Cụ thể, UNCLOS đã đưa ra một số nguyên tắc cơ bản cho việc giải quyết tranh chấp:

Một là, các quốc gia có nghĩa vụ giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hòa bình, phù hợp với Điều 2.3 của Hiến chương Liên Hợp Quốc và nhằm mục đích đó, tìm giải pháp bằng những biện pháp được ghi nhận trong khoản 1 Điều 33 của Hiến chương (Điều 279).

Hai là, các quốc gia trong vụ tranh chấp, trước hết tiến hành thương lượng ngoại giao để giải quyết những tranh chấp (Điều 283).

Ba là, các quốc gia trong vụ tranh chấp có quyền tự do chọn phương thức giải quyết tranh chấp theo Điều 280. Theo đó, quốc gia có quyền tự do lựa chọn bất cứ phương thức giải quyết nào, chọn vào bất cứ thời điểm nào (trước, trong hoặc sau) khi tranh chấp xảy ra, miễn sao phương thức đó là phương thức hòa bình[9].

Bốn là, các quốc gia có nghĩa vụ phải giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia đó với nhau bằng các biện pháp phi tài phán do sự thảo thuận của các bên, kết quả thỏa thuận không mang tính ràng buộc pháp lý. Nếu các phương thức đó không mang lại hiệu quả thì một trong các bên có thể đưa tranh chấp ra giải quyết bằng các cơ quan tài phán theo quy định của Phần XV, Mục 2 (từ Điều 286 đến Điều 296) UNCLOS, với phán quyết mang tính ràng buộc pháp lý.

Vì thế có thể thấy, trong vụ dàn khoan HD 981, Việt Nam đã có những bước đi hết sức đúng đắn phù hợp với quy định của luật pháp quốc tế, nỗ lực kiềm chế xung đột, và tiến hành trao đổi song phương với Trung Quốc bằng các cuộc điện đàm cấp cao, trao đổi công hàm ngoại giao. Đồng thời, thông qua các kênh ngoại giao đa phương, như các diễn đàn cấp khu vực, các lãnh đạo Việt Nam đã bày tỏ quan điểm và chủ trương của Việt Nam trong nỗ lực giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán.

Khi áp dụng thủ tục giải quyết tranh chấp bằng các cơ quan tài phán theo khoản 1 Điều 287 Phần XV của UNCLOS, thì các bên có quyền tuyên bố trước sẽ chọn cơ quan nào, hay theo cách hai bên thỏa thuận lựa chọn. Theo đó, một quốc gia được quyền tự do lựa chọn hình thức tuyên bố bằng văn bản, một hay nhiều cơ chế để giải quyết các tranh chấp có liên quan đến việc giải thích hay áp dụng UNCLOS, bao gồm:

– Tòa án quốc tế về Luật biển (ITLOS) được thành lập theo đúng Phụ lục VII của UNCLOS;

– Toà án quốc tế (ICJ);

– Tòa trọng tài được thành lập theo đúng Phụ lục VII của UNCLOS;

– Tòa trọng tài đặc biệt được thành lập theo đúng Phụ lục VIII của UNCLOS.

Trường hợp nếu không chọn trước hay không thỏa thuận được, thì phải dùng đến trọng tài được thành lập theo Phụ lục VII như một lựa chọn tài phán bắt buộc (khoản 5 Điều 287 và Phụ lục VII). Vì vậy, có thể coi thủ tục trọng tài đã được trù định ở Phụ lục VII của UNCLOS là một cơ quan tài phán đã được “mặc định” cho các bên nếu như các bên không có thỏa thuận lựa chọn thiết chế tài phán khác để giải quyết tranh chấp.

UNCLOS cho phép các nước thành viên áp dụng ngoại lệ đối với giải quyết tranh chấp bằng biện pháp tài phán. Theo Điều 298 của UNCLOS, thì nếu một nước tuyên bố bằng văn bản trước khi ký Công ước là sẽ sử dụng biệt lệ không chấp nhận quyền tài phán bắt buộc của cơ quan tài phán đề cập trong Công ước nếu tranh chấp giữa các bên liên quan đến biên giới biển, vịnh lịch sử, danh nghĩa lịch sử hay các hoạt động quân sự hay thi hành quyền cảnh sát về nghiên cứu biển và nghề cá, hay các tranh chấp đã nhờ Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc thụ lý. Trong trường hợp này, quốc gia đã tuyên bố, theo yêu cầu của một trong các bên, chấp nhận đưa vụ tranh chấp đó ra hòa giải theo thủ tục tại Phụ lục V của UNCLOS. Sau đó hai bên phải thương lượng với nhau dựa trên cơ sở báo cáo hòa giải, nếu việc thương lượng không đạt kết quả, thì các bên theo sự thỏa thuận, cuối cùng các bên phải đưa vấn đề ra giải quyết theo thủ tục bắt buộc của các cơ quan tài phán bắt buộc ở Điều 287, nếu các bên không có thỏa thuận nào khác.

Khi ký Công ước Luật Biển năm 1982, Trung Quốc tuyên bố bảo lưu đối với khoản 1a, 1b, 1c của Điều 298, không áp dụng các thủ tục tài phán đối với các tranh chấp liên quan đến phân định biển, tranh chấp vịnh lịch sử hay danh nghĩa lịch sử, các hoạt động quân sự hay thi hành quyền cảnh sát về nghiên cứu biển và nghề cá, hay các tranh chấp Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đang thụ lý[10]. Nhưng xét cho cùng, Trung Quốc có thể cũng không thoát khỏi nhiệm vụ pháp lý giải quyết tranh chấp trên bằng cơ chế trọng tài theo Phụ lục VII, khi các biện pháp thương lượng hòa giải không đi đến kết quả và các bên không có thỏa thuận nào khác.

Đối với thiết chế tài phán Tòa án quốc tế về Luật Biển (ITLOS) được thành lập theo đúng Phụ lục VII của UNCLOS hay Toà án Quốc tế (ICJ), việc thành lập đòi hỏi việc đồng ý của các bên chấp nhận thẩm quyền xét xử của Tòa đối với tranh chấp. Trong khi đó, thủ tục trọng tài đã được trù định ở Phụ lục VII của UNCLOS là một thiết chế tài phán mang tính bắt buộc khi các bên không đạt được thỏa thuận.

Trong vụ khởi kiện Trung Quốc, Philippines đã khôn khéo sử dụng biện pháp Tòa án Trọng tài theo Phụ lục VII, vì đây là một thủ tục tài phán mang tính bắt buộc khi các bên không đạt được thỏa thuận. Ngay cả khi Trung Quốc tuyên bố không tham gia vụ kiện, điều này cũng không làm trì hoãn vụ kiện, Tòa án Trọng tài vẫn được thành lập và các thủ tục xét xử vẫn được tiếp tục. Việc Trung Quốc không tham gia vụ kiện sẽ là một bất lợi trong việc bảo đảm lợi ích của Trung Quốc trên cơ sở luật pháp quốc tế trước Tòa.

Về tính chất pháp lý của bản án trọng tài được thành lập theo Phụ lục VII, dựa trên Điều 11 Phụ lục VII của UNCLOS quy định bản án của Tòa án Trọng tài nói trên có tính chất tối hậu và không được quyền kháng cáo (trừ việc yêu cầu giải thích). Bản án của Tòa Trọng tài có giá trị ràng buộc các bên trong tranh chấp.

Việt Nam có thể tham khảo Philippines để áp dụng khởi kiện ra Tòa án Trọng tài theo Phụ lục VII của UNCLOS. Dẫu Trung Quốc từ chối tham gia vụ kiện, thì thủ tục tố tụng vẫn được tiến hành và bản án của Tòa án Trọng tài sẽ là cơ sở pháp lý để Việt Nam yêu cầu Trung Quốc tiến hành giải quyết tranh chấp trên thực địa.

4. Bài học về lựa chọn nội dung khởi kiện theo UNCLOS

Có hai loại lợi ích hay quyền lợi quốc gia của Việt Nam tại Biển Đông[11] là (i) chủ quyền đất đai trên nhiều đảo và đá tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và (ii) lợi ích hay quyền đối với những vùng nước và đáy biển dưới mặt nước tại Biển Đông chiếu theo UNCLOS, gồm có quyền chủ quyền và quyền tài phán trong vùng đặc quyền kinh tế và trong vùng thềm lục địa.

Riêng về tranh chấp về chủ quyền trên lãnh thổ ngoài biển, như tranh chấp chủ quyền một hòn đảo, thì không nằm trong phạm vi giải quyết tranh chấp của Công ước Luật Biển năm 1982, vì Công ước không quy định về chủ quyền lãnh thổ, nên nước nào có đủ bằng chứng lịch sử và hiện tại về việc xác lập chủ quyền trên các hải đảo, các bên phải đưa ra Toà án Công lý quốc tế (ICJ). Vì vậy, trong tranh chấp về chủ quyền các đảo, quần đảo tại Biển Đông, chỉ có thiết chế tài phán ICJ mới có thể xét xử vấn đề này. Trong trường hợp này, việc chấp nhận thẩm quyền của ICJ đòi hỏi thiện chí của các bên tranh chấp.

Trong trường hợp tranh chấp về chủ quyền đảo, quần đảo giữa Việt Nam và Trung Quốc trên Biển Đông, với khả năng lớn là Trung Quốc không chấp nhận thẩm quyền xét xử của ICJ, Việt Nam có thể xin ý kiến tư vấn của Tòa án cho vấn đề này. Theo Điều 65 Chương IV Quy chế ICJ, thì “Toà có thể cho ý kiến tư vấn về bất cứ vấn đề pháp lý nào của bất cứ ai có quyền xin, theo Hiến chương Liên Hợp Quốc”. Vì vậy, trong tranh chấp chủ quyền về đảo giữa Việt Nam và Trung Quốc, Việt Nam có thể xin ý kiến tư vấn của toà ICJ, thay vì đưa ra tài phán. Việc xin ý kiến cũng tạo ra ảnh hưởng chính trị và pháp lý nhằm đưa tới giải pháp cho hai bên tranh chấp, mặc dù giá trị ý kiến tư vấn không mang tính ràng buộc pháp lý.

Ngoài ra, vấn đề mấu chốt gắn kết tranh chấp chủ quyền và tranh chấp biển ở Biển Đông chính là Điều 121.3 về chế độ pháp lý‎ của đảo. Trong vụ dàn khoan HD 981, đối với hiện trạng quần đảo Hoàng Sa đang bị Trung Quốc chiếm giữ toàn bộ, Trung Quốc cho rằng địa điểm lắp đặt giàn khoan nằm trong vùng nước của quần đảo Tây Sa (tức Hoàng Sa của Việt Nam) đã thể hiện ý định của Trung Quốc trong việc tuyên bố các quy chế vùng biển của quần đảo Tây Sa như lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa. Điều này liên quan đến việc giải thích hay áp dụng UNCLOS (liệu các đảo nằm trong quần đảo Hoàng Sa rất nhỏ hiện nay có xứng đáng gọi là đảo hay là đá (theo quy định, đá không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, trong khi đảo thì có quy chế đầy đủ), hoặc giới hạn vùng đặc quyền kinh tế, mà đảo có thể có so với dải đất liền lớn rộng của các nước khác bao bọc biển. Vì liên hệ đến giải thích và áp dụng UNCLOS, nên việc này cũng có thể đưa ra khởi kiện tại Toà án Luật Biển hoặc ICJ theo khuôn khổ UNCLOS, hoặc xin ý kiến tư vấn ICJ về vấn đề này.

Trong vụ kiện, Philippines đã né tránh đề cập khởi kiện các vấn đề liên quan đến phán xét chủ quyền, các danh nghĩa lịch sử mà chỉ yêu cầu Tòa án Trọng tài việc giải thích và áp dụng UNCLOS, xem xét việc Trung Quốc xâm phạm việc xác lập và thực hiện các quyền chủ quyền, quyền tài phán của Philippines trên các vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa theo UNCLOS, đồng thời yêu cầu việc xem xét Trung Quốc tuyên bố “đường chín đoạn” là trái với quy định của UNCLOS. Đối với Việt Nam, nếu sử dụng quyền khởi kiện theo thủ tục trọng tài tại Phụ lục VII như Philippines, Việt Nam tương tựsẽ chỉ giải quyết các vấn đề liên quan đến việc giải thích và áp dụng UNCLOS liên quan đến việc xác lập và thực hiện các quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam trên các vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa. Thủ tục Tòa án Trọng tài đề cập trên sẽ không giải quyết được vấn đề chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.

Từ những phân tích nêu trên, chúng tôi xin đưa ra một số nội dung mà Việt Nam có thể xem xét để yêu cầu các cơ quan tài phán nêu ý kiến tư vấn hoặc phán quyết là:

Thứ nhất, quy chế pháp lýđối với các đảo, các bên tranh chấp có thể đề nghị đưa ra ý kiến tư vấn của ICJ về quy chế pháp lý các đảo trong quần đảo Hoàng Sa, theo đó các đảo này không đủ tiêu chí để có tạo nên vùng nước quần đảo, hoặc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng. Đây là cơ sở để khẳng định vị trí mà giàn khoan HD 981 đang khai thác không nằm trong “vùng nước quần đảo” hay vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của đảo. Việc xin ý kiến tư vấn này có thể do Việt Nam và cùng huy động các bên tranh chấp khác cùng kiến nghị lên Tòa ICJ.

Ngoài ra, các bên có thể thưa kiện nội dung này lên Tòa án quốc tế về luật biển ITLOS. Một yêu cầu xuất phát từ Philippines hoặc Việt Nam, được sự ủng hộ của Malaysia/hoặc Brunei/hoặc tất cả các nước có tranh chấp cho ITLOS, yêu cầu Tòa giải thích Điều 121.3 và khả năng áp dụng ở Biển Đông. Liệu lúc đó Trung Quốc sẽ đứng ngoài cuộc hay sẽ phải tham gia quá trình trên cơ sở Điều 31 Quy chế của ITLOS? Bởi vì, trong một vụ tranh chấp, khi một quốc gia thành viên cho rằng một quyền lợi có tính chất pháp lý của mình bị đụng chạm, thì có thể gửi lên cho Toà án một đơn thỉnh cầu để yêu cầu xin tham gia. Nếu Toà án chấp nhận đơn thỉnh cầu, thì quyết định liên quan đến vụ tranh chấp có tính chất bắt buộc đối với quốc gia xin tham gia trong phạm vi mà quyết định này có quan hệ đến các điểm là nội dung của việc tham gia.

Thứ hai, đối với vụ dàn khoan HD 981, Việt Nam có thể thưa kiện Trung Quốc ra Tòa án Trọng tài theo Phụ lục VII của UNCLOS để ra phán quyết liên quan đến các vấn đề sau:

– Tuyên bố việc Trung Quốc đưa giàn khoan HD 981 cùng tàu hộ tống vào khai thác trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam đã vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam theo Điều 56 và Điều 77 của UNCLOS.

– Tuyên bố việc Trung Quốc dùng các tàu của mình ngăn cản các tàu chấp pháp của Việt Nam thực hiện quyền kiểm tra, khám xét giàn khoan HD 981 trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam là hành vi vi phạm quyền tài phán của Việt Nam theo Điều 56 của UNCLOS.

– Tuyên bố việc Trung Quốc thiết lập vùng an toàn 3 hải lý và cấm các loại tàu bè đi vào vùng biển có bán kính 3 hải lý xung quanh giàn khoan HD981, và va đâm các tàu chấp pháp Việt Nam, dùng vòi rồng tấn công… là vi phạm quyền tự do hàng hải, đe dọa an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trong khu vực của Việt Nam và các nước trên thế giới, trái với Điều 60 của UNCLOS, theo đó vùng an toàn tối đa cho một thiết bị và công trình trên biển chỉ là 500m và Điều 58 – quyền dành cho tất cả các quốc gia, tất cả các tàu thuyền, phương tiện bay.

– Tuyên bố việc Trung Quốc thiết lập vùng nước quần đảo hoặc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa cho các đảo ở quần đảo Hoàng Sa không phù hợp với các điều 47, 48, 49 và 121 của UNCLOS.

5. Một số khó khăn Việt Nam có thể đối mặt khi tiến hành khởi kiện

Việc đưa tranh chấp ra một cơ quan tài phán để giải quyết trong thực tiễn quan hệ giữa các quốc gia không là điều mới mẻ, trong khu vực cũng có thể chứng kiến những vụ tranh chấp được giải quyết bởi Tòa án quốc tế như tranh chấp về chủ quyền đối với các đảo Pulau Batu Puteh, Middle Rocks và South Ledge giữa Malaysia và Singapore năm 2003, vụ Đền Preah Vihear giữa Thái Lan và Campuchia với phán quyết mới nhất vào năm 2013… Đây là một xu hướng văn minh thể hiện thiện chí của các bên trong việc giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ tuân thủ luật pháp quốc tế, giữ gìn hòa bình, an ninh trong khu vực, không sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp.

Tuy nhiên, Trung Quốc là một nước lớn trong khu vực, có mối quan hệ trên nhiều lĩnh vực như văn hóa, kinh tế, thương mại, đầu tư. Chính vì vậy, mà hầu hết các quốc gia khác đều có phần e dè khi có những hành động làm “phật lòng” Trung Quốc. Trong vụ kiện Trung Quốc đối với tranh chấp ở Biển Đông, Philippines đã chịu những đòn trừng phạt về kinh tế của Trung Quốc. Có thể dự đoán, khi Việt Nam tiến hành khởi kiện, Trung Quốc sẽ tiến hành các biện pháp trả đũa trong lĩnh vực kinh tế, hoặc gia tăng quân sự leo thang căng thẳng ở Biển Đông.

Với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, không tham gia liên minh quân sự với bất kì nước nào, Chính phủ Việt Nam chắc chắn phải có một sự chuẩn bị, tính toán, cân nhắc rất kỹ lưỡng và thấu đáo, để tránh những tổn thất kinh tế và các lĩnh vực khác ở mức độ thấp nhất, tranh thủ sự hậu thuẫn và ủng hộ mạnh mẽ của công luận quốc tế, và của các cường quốc trên thế giới.

Trong vụ kiện Trung Quốc của Philippines, để Tòa án Trọng tài đi đến phán quyết cuối cùng, thời gian theo đuổi vụ kiện có thể sẽ diễn ra khoảng từ 3- 4 năm. Khi có phán quyết cuối cùng, giả sử có lợi cho Philippines, Trung Quốc có thể sẽ phớt lờ ý kiến trọng tài dựa trên cơ sở từ chối tham gia vụ kiện, cho rằng tòa án không có thẩm quyền xét xử, đồng thời Trung Quốc kiên quyết theo chủ trương không sử dụng bên thứ ba xử lý các vấn đề liên quan đến tranh chấp trên Biển Đông. Vậy nên, Việt Nam cũng cần phải chuẩn bị tài chính, xây dựng đội ngũ chuyên gia am hiểu luật pháp quốc tế, luật sư giỏi để tham gia vụ kiện này. Trong một chừng mực nhất định, phán quyết cuối cùng của Tòa sẽ có giá trị quan trọng về mặt quy tắc và tinh thần trong cộng đồng quốc tế và cung cấp cơ sở pháp lý cho các bên liên quan trong tranh chấp. Đồng thời, nó sẽ có tác động chính trị quan trọng tới cơ chế giải quyết tranh chấp của Luật Biển, đối với bản thân Luật Biển và cả việc thực thi phán quyết của Tòa án, mối quan hệ giữa các bên tranh chấp trong vấn đề Biển Đông.

Việc đấu tranh bằng con đường ngoại giao pháp lý là nỗ lực bền bỉ mà các nước nhỏ như Việt Nam cần theo đuổi trong giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, hay tranh chấp trên các vùng biển. Đứng trước pháp luật, công lý, các quốc gia dù lớn hay nhỏ cũng đều có vị thế bình đẳng lẫn nhau. Cũng không thể loại trừ khả năng, cuộc đấu tranh ngày càng công khai, sử dụng công luận và công cụ pháp lý hiệu quả sẽ mở ra khả năng sử dụng các cơ quan tài phán quốc tế để giải quyết tranh chấp hoặc chí ít hạn chế các hành động gây hấn, các tuyên bố yêu sách vô lý không tuân thủ Công ước Luật Biển năm 1982. Vì vậy, Việt Nam cần vận dụng linh hoạt tất cả các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp, đặc biệt tận dụng thế mạnh pháp lý và công luận để bảo vệ chủ quyền thiêng liêng tại Biển Đông.

ThS. Bạch Thị Nhã Nam

Đại học Kinh tế – Luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh



[1] Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển có tên tiếng Anh “United Nations Convention on the Law of the Sea” UNCLOS, thông qua ngày 10/12/1982, 1833 U.N.T.S 397 (Có hiệu lực từ 16/11/1984).

[2] Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông còn gọi là Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Nam Trung Hoa (tiếng Anh: Declaration on Conduct of the Parties in the South China Sea), viết tắt là DOC, là một văn kiện được các nước ASEANTrung Quốc ký kết ngày 4/11/2002 tại Phnom Penh, Campuchia nhân dịp Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 8.

[3] David Pilling and Roel Landingin in Manila,Philippines president warns on Chinese expansion, Tạp chí Thời báo Kinh tế – Financial Times, ngày 26/05/2014, tại địa chỉ http://www.ft.com/cms/s/0/7942be6a-e3ca-11e3-a73a-00144feabdc0.html#axzz330HKf200, truy cập ngày 28/05/2014.

[4]Thủ tướng trả lời phỏng vấn của AP và Reuters về Biển Đông, Báo Bảo vệ Pháp luật, ngày 22/05/2014, http://baobaovephapluat.vn/kiem-sat/diem-nong/201405/thu-tuong-tra-loi-phong-van-cua-ap-va-reuters-ve-bien-dong-2330497/, truy cập ngày 28/05/2014.

[5]Theo Tuổi trẻ Online, Không vì hữu nghị mà không nói sự thật, 30/05/2014, truy cập tại http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/610115/khong-vi-huu-nghi-ma-khong-noi-su-that.html, truy cập 30/05/2014.

[6]Pia Lee-Brago, China reiterates rejection of UN arbitration on sea row, ngày 30/08/2013, http://www.philstar.com/headlines/2013/08/30/1151141/china-reiterates-rejection-un-arbitration-sea-row/, truy cập vào ngày 28/05/2014.

[7] Giảng viên bộ môn Chính trị học tại Đại học New South Wales thuộc Học viện Quốc phòng Ôxtrâylia ở Canbơrơ, dựa theo bài phỏng vấn giáo sư đăng trên http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/philip-ask-un-01302013134625.html, truy cập vào ngày 12/04/2014.

[8] Các phương pháp hòa bình giải quyết tranh chấp bao gồm các phương pháp phi tài phán với kết quả mang tính khuyến nghị đối với các bên gồm: Đàm phán, trung gian, hòa giải; các phương pháp tài phán mang tính pháp lý ràng buộc như trọng tài, tòa án.

[9] Xem: Điều 282, Điều 284, Điều 287 của UNCLOS.

[10] Tuyên bố của Trung Quốc ngày 25/08/2006: “The Government of the People’s Republic of China does not accept any of the Convention any of the procedures provided for in Section 2 of Part XV of the Convention with respect to all the categories of disputes referred to in paragraph 1 (a) (b) and (c) of Article 298 of the Convention.”

[11]Theo Luật sư Tạ Văn Tài, nguyên giảng viên và hiện là nghiên cứu viên Trường Luật thuộc Đạihọc Harvard (Hoa Kỳ), Kiện Trung Quốc ở tòa nào? – Phần 2, ngày 28/05/2014, http://www.thesaigontimes.vn/115436/Kien-Trung-Quoc-o-toa-nao?—Phan-2.html, truy cập ngày 30/05/2014.

Tham khảo thêm:

1900.0191