Phân tích Tội cưỡng dâm trẻ em

TỘI CƯỠNG DÂM TRẺ EM ( ĐIỀU 114)

Cưỡng dâm trẻ em là hành vi của một người dùng mọi thủ đoạn khiến người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi lệ thuộc mình hoặc đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu với mình.

CÁC DẤU HIỆU CỦA TỘI PHẠM

Tội cưỡng dâm người chưa thành niên là tội phạm được tách ra từ trường hợp phạm tội quy định tại điểm a khoản 2 Điều 113a Bộ luật hình sự năm 1985 do yêu cầu của việc đấu tranh với những hành vi lạm dụng tình dục đối với trẻ em đang xảy ra rất nghiêm trọng ở nước ta.

Về cơ bản các dấu hiệu của tội cưỡng dâm trẻ em cũng tương tự như đối với tội cưỡng dâm quy định tại Điều 113 Bộ luật hình sự, chỉ khác nhau ở chỗ nạn nhân bị cưỡng dâm ở tội này là trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dươí 16 tuổi, nếu nạn nhân dưới 13 tuổi thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm trẻ em quy định tại Điều 112 Bộ luật hình sự.

Cũng tương tự như đối với các trường hợp hiếp dâm trẻ em, hiếp dâm người chưa thành niên, trường hợp cưỡng dâm trẻ em, các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ cần xác định tuổi thật của nạn nhân là trẻ em từ 13 đến dưới 16 tuổi mà không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của người phạm tội có biết hay không biết người mà mình cưỡng dâm là trẻ em.

CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

 

  1. Cưỡng dâm một người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi ( khoản 1 Điều 114)

Người chưa thành niên dưới 16 tuổi được gọi là trẻ em, vì vậy cưỡng dâm người dưới 16 tuổi gọi là cưỡng dâm trẻ em. Lẽ ra trường hợp phạm tội này chỉ cần quy định cưỡng dâm trẻ em là đủ. Tuy nhiên, nếu cưỡng dâm trẻ em dưới 13 tuổi thì lại bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm nên cần phải quy định cụ thể trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi để khỏi nhầm với trường hợp trẻ em dưới 13 tuổi bị giao cấu mà Bộ luật hình sự quy định là tội hiếp dâm. Để xác định trường hợp phạm tội này, các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ cần xác định tuổi của nạn nhân sau khi đã xác định đủ các yếu tố cấu thành tội cưỡng dâm.

Cưỡng dâm một người là trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 114 có khung hình phạt từ năm năm đén mười năm tù.

  1. Cưỡng dâm trẻ em có tính chất loạn luân ( điểm a khoản 2 Điều 114)

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội cưỡng dâm cótính chất loạn luân quy định tại điểm d khoản 2 Điều 113 Bộ luật hình sự, chỉ khác nhau ở chỗ nạn nhân trong trường hợp này là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu nạn nhân dưới 13 tuổi thì người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm trẻ em quy định tại điểm a khoản 2 Điều 112 Bộ luật hình sự.

  1. Cưỡng dâm trẻ em làm nạn nhân có thai ( điểm b khoản 2 Điều 114)

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội cưỡng dâm quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 113 Bộ luật hình sự, chỉ khác nhau ở chỗ nạn nhân trong trường hợp này là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu nạn nhân dưới 13 tuổi thì người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm trẻ em quy định tại điểm b khoản 2 Điều 112 Bộ luật hình sự.

  1. Cưỡng dâm gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% ( điểm c khoản 2 Điều 114)

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội cưỡng dâm quy định tại điểm e khoản 2 Điều 113 Bộ luật hình sự, chỉ khác nhau ở chỗ nạn nhân trong trường hợp này là người từ đủ 13 tuổi dưới 16 tuổi, nếu nạn nhân dưới 13 tuổi thì người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm trẻ em quy định tại điểm c khoản 2 Điều 112 Bộ luật hình sự.

  1. Người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm ( điểm d khoản 2 Điều 114)

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội cưỡng dâm quy định tại điểm g khoản 2 Điều 113 Bộ luật hình sự, chỉ khác nhau ở chỗ nạn nhân trong trường hợp này là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu nạn nhân dưới 13 tuổi thì người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm trẻ em quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 112 Bộ luật hình sự .

Người phạm tội thuộc một trong các trường hợp: Có tính chất loạn luân; làm nạn nhân có thai ; gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% ; tái phạm nguy hiểm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 114 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ bảy năm đến mười lăm năm tù. So với khoản 2 Điều 113a Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 2 Điều 114 Bộ luật hình sự năm 1999 có khung hình phạt nặng hơn nên chỉ áp dụng đối với hành vi phạm tội kể từ 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 trở đi .

  1. Nhiều người cưỡng dâm một người ( điểm a khoản 3 Điều 114)

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội cưỡng dâm quy định tại điểm a khoản 2 Điều 113 Bộ luật hình sự, chỉ khác nhau ở chỗ nạn nhân trong trường hợp này là người từ đủ 13 đến dưới 18 tuổi, nếu nạn nhân lại là người dưới 13 tuổi người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm trẻ em quy định taị khoản 4 Điều 112 Bộ luật hình sự.

  1. Phạm tội cưỡng dâm trẻ em nhiều lần( điểm b khoản 3 Điều 114)

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội cưỡng dâm quy định tại điểm b khoản 2 Điều 113 Bộ luật hình sự chỉ khác nhau ở chỗ nạn nhân trong trường hợp này là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu nạn nhân lại dưới 13 tuổi thì người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm trẻ em quy định tại khoản 4 Điều 112 Bộ luật hình sự và nếu nạn nhân trên 16 tuổi thì thuộc trường hợp cưỡng dâm người chưa thành niên quy định tại đoạn hai khoản 4 Điều 113 Bộ luật hình sự .

Khi xác định tình tiết phạm tội này cần chú ý: Tất cả những lần cưỡng dâm, nạn nhân đều ở độ tuổi từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi, nếu có hai lần cưỡng dâm, nhưng chỉ có một lần nạn nhân ở độ tuổi đủ 13 đến dưới 16 còn một lần nạn nhân trên 16 tuổi thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tội: tội cưỡng dâm người chưa thành niên (khoản 4 Điều 113 ) và tội cưỡng dâm trẻ em ( khoản 1 Điều 114); nếu có một lần nạn nhân chưa đén 13 tuổi thì người phạm tội cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tội: tội hiếp dâm trẻ em ( khoản 4 Điều 112) và tội cưỡng dâm trẻ em ( khoản 1 Điều 114).

  1. Cưỡng dâm nhiều trẻ em ( điểm c khoản 4 Điều 114)

Trường hợp phạm tội này cũng tường tự như trường hợp phạm tội cưỡng dâm nhiều người quy định tại điểm c khoản 2 Điều 113 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ, các nạn nhân trong trường hợp này đều là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu nạn nhân dưới 13 tuổi thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm trẻ em quy định tại Điều 112 Bộ luật hình sự.

Khi xác dịnh tình tiết phạm tội này, các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ cần xác dịnh tuổi thật của người bị hại mà không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của người phạm tội.

  1. Cưỡng dâm gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên ( điểm d khoản 3 Điều 114)

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội “cưỡng dâm gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên quy định tại điểm a khoản 3 Điều 113 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ, nạn nhân trong trường hợp này là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu nạn nhân dưới 13 tuổi thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm trẻ em quy định tại điểm đ khoản 3 Điều 112 Bộ luật hình sự.

  1. Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn cưỡng dâm trẻ em ( điểm đ khoản 3 Điều 114)

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp “biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội” quy định tại điểm b khoản 3 Điều 113 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ, nạn nhân trong trường hợp này là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu nạn nhân dưới 13 tuổi thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm trẻ em quy định tại điểm e khoản 3 Điều 112 Bộ luật hình sự.

  1. Cưỡng dâm làm nạn nhân chết hoặc tự sát ( điểm e khoản 3 Điều 114)

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp cưỡng dâm làm nạn nhân chết hoặc tự sát quy ddịnh tại điểm c khoản 3 Điều 113 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ nạn nhân trong trường hợp này là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu nạn nhân lại là người dưới 13 tuổi thì người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm trẻ em quy định tại điểm g khoản 4 Điều 112 Bộ luật hình sự.

Người phạm tội thuộc một trong các trường hợp : Nhiều người cưỡng dâm một người ; Phạm tội nhiều lần ; gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên; biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội; phạm tội làm nạn nhân chết hoặc tự sát, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 114 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.

Trừ trường hợp “phạm tội làm nạn nhân chết hoặc tự sát”, còn các trường hợp phạm tội khác, so với khoản 3 Điều 113a Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 3 Điều 114 là tội phạm nặng hơn, vì khoản 3 Điều 114 Bộ luật hình sự năm 1999 là điều khoản được nhập hai khoản ( khoản 3 và khoản 4 Điều 113a). Vì vậy, nếu hành vi phạm tội của người phạm tội được thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì áp dụng khoản 3 Điều 113a Bộ luật hình sự năm 1985 đối với người phạm tội ( trừ trường hợp phạm tội làm nạn nhân chết hoặc tự sát được áp dụng khoản 3 Điều 114 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội)

Tham khảo thêm:

1900.0191