Mối quan hệ giữa Quốc hội với TAND tối cao theo pháp luật hiện hành

_Về trật tự hình thành:

+Quốc hội thành lập nên Toà án nhân dân tối cao. Chánh án toà án nhân dân tối cao do Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước, nhiệm kì của Chánh án TAND tối cao theo nhiệm kì của Quốc hội.

+Quốc hội có quyền quy định tổ chức và hoạt động của TAND tối cao.

+Quốc hội phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán TAND tối cao.

_Về quá trình hoạt động:

+Chánh án TAND tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội.

+Quốc hội có quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với Chánh án TAND tối cao. Ngược lại TAND tối cao có thẩm quyền xét xử các đại biểu Quốc hội.

+Quốc hội có quyền bãi bỏ văn bản của TAND tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội. Uỷ ban thường vụ Quốc hội có quyền đình chỉ thi hành đối với các văn bản của TAND tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; bãi bỏ văn bản của TAND tối cao khi trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

+Toà án nhân dân tối cao có quyền trình dự án luật trước Quốc hội, trình dự án pháp lệnh trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

_Về hoạt động kiểm tra, giám sát:

+Quốc hội có quyền giám sát hoạt độngvà  xét báo cáo của TAND tối cao. Uỷ ban thường vụ Quốc hội có quyền giám sát hoạt động của TAND tối cao.

+Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chánh án TAND tối cao. Chánh án TAND tối cao phải trả lời chất vấn trước Quốc hội tại kì họp, trong trường hợp cần điều tra thì Quốc hội cho trả lời trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc trả lời tại phiên họp sau của kì họp hoặc gửi văn bản trả lời.

Tham khảo thêm:

1900.0191