Định nghĩa bình luận về hành vi Mớm cung

Định nghĩa bình luận về hành vi Mớm cung theo quy định pháp luật.


Định nghĩa bình luận về hành vi Mớm cung
Định nghĩa bình luận về hành vi Mớm cung

Mớm cung là biểu hiện phổ biến đầu tiên của hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động hỏi cung bị can. Hành động này của cơ quan điều tra có thể hiểu là đặt câu hỏi hoặc dùng cách này hay cách khác có tính chất gợi ý để người được hỏi (bị can) trả lời theo ý muốn chủ quan của người hỏi ( Điều tra viên). Nội dung câu hỏi mớm cung thường chứa đựng ý chủ quan của người hỏi để trả lời theo ý đó. Hình thức mớm cung rất đa dạng, có thể người hỏi gợi ý cho người nghe trả lời, có thể cho xem tài liệu, vật chứng chưa được xác định chính xác để họ trả lời theo gợi ý. Việc mớm cung làm cho lời khai không chính xác, không phản ánh đúng sự thật khách quan của vụ án. Do vậy, pháp luật Tố tụng Hình sự nghiêm cấm mớm cung khi hỏi cung bị can cũng như khi xét hỏi tại phiên toà.

Thông thường, có các hình thức mớm cung phổ biến sau:

– Mớm cung bằng cách đặt câu hỏi trong đó chứa đựng nội dung câu trả lời, Điều tra viên nói rõ những suy luận, phán đoán của mình cho bị can nghe. Những câu hỏi loại này thường chứa đựng cả nội dung câu trả lời, cho nên bị can có thể ngay lập tức phán đoán được ý muốn của Điều tra viên, bị can có thể cứ thế mà khai và cán bộ hỏi cung cũng dễ bằng lòng, mặc dù lời khai có thể đúng hoặc không đúng sự thật.

– Mớm cung bằng cách đặt liên tiếp câu hỏi về một vấn đề và biểu lộ thái độ hướng bị can khai theo ý muốn của mình.

– Mớm cung bằng cách cho bị can xem tài liệu hoặc vật chứng như ảnh chụp tại hiện trường vụ án, đọc biên bản hỏi cung hoặc bản tự khai hoặc nghe băng ghi âm hoặc xem băng ghi hình quá trình hỏi cung bị can khác… trong khi chưa có đầy đủ căn cứ xác thực khẳng định có liên quan đến bị can đang được tiến hành hỏi cung nhằm mực đích mớm cung. Hình thức mớm cung này rất nguy hiểm vì nó làm cho lời khai của bị can được mớm có thể đang mâu thuẫn lại trở lên phù hợp với lời khai của các bị can khác hoặc của người làm chứng, người bị hại, với vật chứng và dấu vết tại hiện trường, dẫn tới mâu thuẫn không được bộc lộ, đúng sai khó phát hiện, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình điều tra vụ án sau này, có thể dẫn tới việc vụ án bị kéo dài mà không thể giải quyết hay sự thật không được làm sáng tỏ.

– Mớm cung thông qua đối chất. Đối chất là hoạt động điều tra được áp dụng trong trường hợp phát sinh mâu thuẫn trong lời khai giữa hai hay nhiều người về cùng một vấn đề trong vụ án nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án. Đây là một biện pháp hợp pháp được quy định tại Điều 138 Bộ luật TTHS 2003.

Theo quy định của pháp luật, khi bắt đầu đối chất, Điều tra viên hỏi về mối quan hệ giữa những người tham gia đối chất, sau đó hỏi về những tình tiết cần làm sáng tỏ. Khi đã nghe những lời khai trong đối chất, Điều tra viên có thể hỏi thêm từng người. Điều tra viên cũng có thể để cho những người tham gia đối chất hỏi lẫn nhau; câu hỏi và câu trả lời của những người này phải được đưa vào biên bản. Chỉ sau khi những người này đã khai xong mới được nhắc lại những lời khai lần trước của họ. Điều này nhằm đảm bảo cho lời khai của những người tham gia đối chất được khách quan.

Tuy nhiên, hoạt động đối chất có nhược điểm là dễ bộc lộ sơ hở để các đối tượng thồng đồng nhằm đối phó với cơ quan điều tra và điều tra viên. Do đó, Điều tra viên dễ phạm sai lầm, dẫn tới hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động hỏi cung bị can. Mặt khác, khi Điều tra viên vô tình hay cố ý sử dụng đối chất để mớm cung thì kết quả cũng gây nên khó khăn phức tạo không lường được. Điều tra viên có thể đã sử dụng một số hoạt động đối chất biến tướng như: Hỏi nhiều người cùng một lúc nhằm tạo sự áp đảo tâm lý với một cá nhân, sau đó tách riêng biên bản thành các cuộc đối chất hai người, dùng người có uy tín đặc biệt để bức hỏi, dùng người có lời khai phù hợp với suy nghĩ chủ quan của Điều tra viên để mớm cho những người khác khai theo, mặc dù những lời khai này chưa có căn cứ xác định tính xác thực… nhằm mục đích thu được lời khai phù hợp với phỏng đoán chủ quan trước đó của Điều tra viên.

Như vậy, ở trường hợp này, Điều tra viên đã thông qua một biện pháp hợp pháp để thu thập lời khai một cách trái pháp luật.

Cũng có trường hợp Điều tra viện giả vờ sơ ý để bị can nghe một người khác đang khai hay nhìn thấy một tài liệu, một vật chứng, sau đó dùng cách truy hỏi, hướng bị can khai theo những điều đã vô tình nghe thấy, nhìn thấy, trong khi lời khai của những người này và những vật chứng đó chưa được thẩm tra, xác minh kỹ. Hình thức mớm cung này được xem là một trong những hình thức cực kỳ tinh vi bởi lẽ nó làm cho người khác tưởng bị can tự khai ra mà không biết rằng bị can đã bị mớm cung.

Như vậy dù là hình thức mớm cung như thế nào thì cũng rất nguy hiểm bởi lẽ nó làm cho việc điều tra vụ án trở nên không khách quan, sự thật bị xáo trộn, từ đó dẫn tới những kết luận, những bản án sai lệch gây ảnh hưởng lớn đến uy tín của các cơ quan Tư pháp và lòng tin của người dân vào chính quyền Nhà nước.


Bài luận liên quan:

1900.0191