VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT THUẾ HIỆN NAY

Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay – Các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò đó trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.

Thuế vừa là phạm trù kinh tế, vừa là phạm trù lịch sử. Lịch sử xã hội loài người đã chứng minh rằng thuế ra đời là một tất yếu khách quan, gắn với sự hình thành và phát triển của nhà nước. Để duy trì sự tồn tại đồng thời với việc thực hiện các chức năng của mình, nhà nước cần có nguồn vật chất để thực hiện những chi tiêu có tính chất xã hội. Bằng quyền lực chính trị, nhà nước thu một bộ phận của cải xã hội để có được nguồn vật chất đó. Quan hệ thu; nộp những nguồn vật chất này chính là thuế. Thu thuế được thực hiện từ hình thức thu bằng hiện vật chuyển dần sang thu dưới hình thức giá trị. Điều đó cũng có nghĩa, thuế xuất hiện ban đầu có hình thức biểu hiện rất đơn giản. Thuế xuất hiện từ lâu đời và có vai trò quan trọng đối với một quốc gia.

Qua bài tập lớn học kỳ em muốn trình bày những hiểu biết về: “Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay – Các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò đó trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế”.

I.Một số hiểu biết về thuế

1.Khái niệm chung về thuế

Các Mác viết “Thuế  là cơ sở kinh tế của bộ máy nhà nước, là thủ đoạn đơn giản để kho bạc thu được tiền hay tài sản của người dân để dùng vào việc chi tiêu của nhà nước”.

Có nhiều quan điểm đưa ra những khái niệm về thuế khác nhau như:

_Thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có nghĩa vụ phải thực hiện đối với Nhà nước, phát sinhtrên cơ sở các văn bản pháp luật do Nhà nước ban hành, không mang tínhchất đối giá và hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp thuế. Thuế khôngphải là một hiện tượng tự nhiên mà là một hiện tượng xã hội do chính con người định ra và nó gắn liền với phạm trù Nhà nước và pháp luật.

_ Thuế là khoản đóng góp bằng tiền mà các tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện phải nộp cho Ngân sách nhà nước theo nguyên tắc không hoàn trả trên cơ sở pháp luật.

Như vậy: Có thể hiểu một cách khái quát: Thuế là khoản thu nộp mang tính bắt buộc mà các tổ chức, cá nhân phải nộp khi có những điều kiện nhất định.

2.Đặc điểm của Thuế

  • Thuế do Quốc hội lập ra dưới hình thức 1 đạo luật – là hình thức văn bản có tính pháp lý cao nhất do cơ quan quyền lực cao nhất, cơ quan lập pháp đặt ra.
  • Thuế luôn mang tính chất bắt buộc:  Thuế được thu để tạo quỹ Ngân sách nhà nước chi dùng cho việc chung, mọi công dân đủ điều kiện phải đóng thuế. Việc bỏ ra một khoản tiền để đóng thuế không mang lại lợi ích trực tiếp cho người nộp thuế nhưng họ vẫn phải nộp bởi nguồn thu từ thuế là nguồn thu chủ yếu của Ngân sách nhà nước, thiếu nguồn thu này Nhà nước không thể tồn tại. Vì vậy, Nhà nước sẽ áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với công dân không thực hiện nghĩa vụ nộp thuế.
  • Thuế mang tính chất không hoàn trả trực tiếp và tương xứng. Công dân phải đóng thuế khi đủ điều kiện và họ không nhận được bất cứ lợi ích trực tiếp gì từ việc đóng thuế, tuy nhiên có sự hoàn trả gián tiếp thông qua việc Nhà nước sử dụng thuế cho các nhu cầu chung của xã hội. Đặc điểm này của Thuế giúp ta phân biệt với phí và lệ phí, vì phí và lệ phí có sự bù đắp, người đóng phí và lệ phí sẽ nhận được lợi ích trực tiếp từ việc đóng phí và lệ phí.
  • Thuế luôn gắn với quyền lực nhà nước, là hai phạm trù không thể tách rời: Nhà nước là chủ thể duy nhất đặt ra các khoản thuế và ngược lại thuế là phương tiện vật chất chủ yếu để duy trì quyền lực nhà nước.

3.Các nguyên tắc cơ bản của thuế

  • Nguyên tắc công bằng: Tất cả các đạo luật thuế đều đưa ra điều kiện đối với đối tượng nộp thuế, bất kỳ công dân nào đáp ứng các điều kiện này thì phải nộp thuế, không phân biệt giới tính, tuổi tác, nghề nghiệp…. Ngoài ra khi xây dựng các khoản thuế Nhà nước chỉ nhằm vào các đối tượng có khả năng đóng thuế.
  • Nguyên tắc minh bạch, rõ ràng, cụ thể:
  • Nguyên tắc thuận tiện cho người nộp thuế.
  • Nguyên tắc đơn giản, dễ tính toán.
  • Nguyên tắc hiệu quả.

Ở Việt Nam trong quá trình xây dựng hệ thống thuế đòi hỏi phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản sau:

  • Về mặt tài chính thuế phải là phương tiện chủ yếu tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
  • Về mặt kinh tế thuế phải là công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
  • Về mặt hành thu phương pháp tính toán các loại thuế phải dễ tính, dễ hiểu, dễ kiểm tra.
  • Về mặt xã hội thuế phải thực hiện công bằng xã hội.
  • Về mặt pháp lý thuế phải đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong hoạt động thu nộp thuế.

4.Phân loại thuế

Thuế được chia làm 2 loại thuế trực thu và thuế gián thu:

Thuế trực thu: là loại thuế nhằm điều tiết thu nhập trực tiếp của người nộp thuế. Đối với thuế trực thu người nộp thuế cũng là người chịu thuế, bất lợi cho chính người nộp thuế.

Thuế trực thu mang tính chất công bằng hơn, chỉ nhằm vào người có thu nhập.

Vd: Thuế Thu nhập doanh nghiệp,Thuế Thu nhập đối với người có thu nhập cao.

Thuế gián thu: là loại thuế nhằm điều tiết thu nhập của người tiêu dùng thông qua giá cả hàng hoá, dịch vụ. Đối với thuế gián thu người nộp thuế không phải là người chịu thuế, người chịu thuế là người tiêu dùng cuối cùng hàng hoá, dịch vụ bị đánh thuế.

Thuế gián thu mang tính chất ít công bằng hơn. Tất cả mọi người giàu hay nghèo đều phải nộp thuế khi sử dụng hàng hoá, dịch vụ.

VD: Thuế giá trị gia tăng.

5.Các sắc thuế của Việt nam hiện nay

  • Luật thuế thu nhập doanh nghiệp
  • Luật thuế giá trị gia tăng
  • Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
  • Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất
  • Luật thuế tiêu thụ đặc biệt.
  • Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp
  • Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao.
  • Pháp lệnh phí và lệ phí.
  • Thuế môn bài
  • Pháp lệnh thuế tài nguyên.
  • Pháp lệnh thuế nhà đất.

II.Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay.

1.Tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước

_Thuế là nguồn thu chính của ngân sách Nhà nước, hàng năm nguồn thu từ thuế chiếm trên 90% tổng thu Ngân sách nhà nước.

_Là nguồn thu ổn định của ngân sách Nhà nước, thuế là khoản thu mang tính luật pháp thể hiện tính cưỡng chế cao.

_Chủ thể nộp thuế rộng nên tỷ lệ động viên vào ngân sách Nhà nước cao.

_Nhà nước ban hành pháp luật thuế và ấn định các loại thuế áp dụng đối với các pháp nhân và thể nhân trong xã hội.Việc các chủ thể nộp thuế -thực hiện nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật thuế đã tạo ra nguồn tài chính quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn thu ngân sách Nhà nước.

_Cũng như pháp luật nói chung, Pháp luật thuế có chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội. Mục đích chủ yếu và quan trọng nhất của sự điều chỉnh quan hệ pháp luật thu – nộp thuế là  nhằm tạo lập qũy ngân sách Nhà nước.

Hầu hết ở các quốc gia, thuế là hình thức chủ yếu mà pháp luật quy định để thu ngân sách Nhà nước.

_Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu nội bộ của nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, xuất phát từ phạm vi hoạt động mà đòi hỏi Nhà nước phải ban hành và tổ chức thực hiện pháp luật thuế để tập trung nguồn tài chính vào ngân sách Nhà nước từ đó mới đáp ứng được nhu cầu chi ngày càng tăng.

_Thuế là công cụ quan trọng nhất để phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân theo đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Hiện nay nguồn thu nước ngoài đã giảm nhiều, kinh tế đối ngoại chuyển thành có vay có trả. Trước tiên, thuế là một công cụ quan trọng để góp phần ổn định trật tự xã hội, chuẩn bị điều kiện và tiền đề cho việc phát triển lâu dài.

2.Điều tiết nền kinh tế

  • Thuế là công cụ tài chính điều tiết nền kinh tế. Đây là vai trò có tính chất quyết định của thuế. Sử dụng công cụ thuế, nhà nước có thể mở rộng hoặc thu hẹp một ngành kinh tế nào đó. Để  phát triển một ngành kinh tế nhà nước sử dụng biện pháp:  đánh thuế thấp, thu hẹp phạm vi chủ thể nộp thuế, mở rộng diện miễn, giảm thuế. Để thu hẹp một ngành kinh tế nhà nước sử dụng biện pháp: đánh thuế cao, mở rộng phạm vi chủ thể nộp thuế, giảm diện miễn, giảm thuế.
  • Thuế là công cụ điều chỉnh giá cả thị trường, hạn chế lạm phát: Khi giá cả một loại hàng hoá nào đó trên thị trường tăng lên, Nhà nước có thể điều chỉnh giá bằng cách giảm thuế đối với mặt hàng đó và ngược lại; Để kiềm chế tốc độ lạm phát nhà nước có thể giảm thuế.
  • Thuế là công cụ để Nhà nước thực hiện  bảo hộ nền sản xuất trong nước. Nhà nước hướng dẫn sản xuất, tiêu dùng thông qua sự phân bổ và sử dụng các nguồn lực. Nó là đòn bẩy kinh tế quan trọng, kích thích hiệu quả sản xuất kinh doanh.

_Ngoài việc huy động nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, pháp luật thuế còn

có vai trò quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế. Ðiều 26 Hiến pháp 1992 ghi nhận: Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách. Là một bộ phận của hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp luật thuế đóng vai trò là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Thông qua việc ban hành và thực hiện pháp luật thuế, Nhà nước thể chế hoá và thực hiện chính sách điều tiết đối với nền kinh tế, điều tiết thu nhập và tiêu dùng xã hội.

_Ðiều tiết đối với nền kinh tế là yêu cầu khách quan, thường xuyên của Nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Thông qua các quy định của pháp luật thuế về cơ cấu các loại thuế, phạm vi đối tượng nộp thuế, thuế suất, miễn giảm thuế…Nhà nước chủ động phát huy vai trò điều tiết đối với nền kinh tế. Vai trò này của pháp luật thuế được thể hiện ở chỗ pháp luật thuế là công cụ tác động đến tư duy đầu tư, hành vi đầu tư của các chủ thể kinh doanh, hành vi tiêu dùng của các thành viên trong xã hội. Dựa vào công cụ thuế, Nhà nước có thể thúc đẩy hoặc hạn chế việc đầu tư, tiêu dùng.

_Thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước chủ động can thiệp đến cung – cầu của nền kinh tế. Sự tác động của Nhà nước để điều chỉnh cung – cầu của nền kinh tế một cách hợp lý sẽ có tác động lớn đến sự ổn định và tăng trưởng kinh tế. Bằng các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước tác động tích cực đến cung – cầu của nền kinh tế trong tất cả các giai đoạn từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.

_Ðiều tiết tiêu dùng là hoạt động quan trọng của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường. Thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước tác động đến các quan hệ tiêu dùng của xã hội. Nhằm hạn chế việc tiêu dùng đối với một số hàng hóa, dịch vụ, Nhà nước tăng thuế suất thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập khẩu…đối với việc sản xuất kinh doanh,tiêu dùng các loại hàng hóa đó.

_Ðể thực hiện chính sách bảo hộ, khuyến khích sản xuất trong nước và khuyến khích xuất khẩu, pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có các quy định khuyến khích hoặc hạn chế việc xuất, nhập khẩu đối với một số hàng hóa. Sự khuyến khích hoặc hạn chế này thể hiện tập trung ở biểu thuế áp dụng có tính chất phân biệt đối với các loại hàng hóa xuất nhập khẩu.

_Trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường tất yếu dẫn đến tình trạng suy thoái về tài chính ở một số doanh nghiệp. Ðối với những ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh cần khuyến khích, ngoài các quy định chung, pháp luật thuế còn có các quy định ưu đãi, miễn, giảm thuế nhằm khắc phục sự suy thoái về tài chính, tạo sự ổn định và phát triển của các doanh nghiệp.

_Thuế góp phần khuyến khích khai thác nguyên liệu, vật tư trong nước để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu.Thông qua pháp luật thuế, Nhà nước có tác động tích cực trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển trên cơ sở tận dụng và sử dụng hợp lý và có hiệu qủa các nguồn lực của đất nước trong việc điều chỉnh cung – cầu và cơ cấu kinh tế.

3.Thuế là công cụ để điều tiết thu nhập, hướng dẫn tiêu dùng và thực hiện công bằng xã hội.

  • Nhà nước đánh thuế cao đối với mặt hàng cần hạn chế tiêu dùng và đánh thuế thấp đối với mặt hàng thiết yếu, khuyến khích tiêu dùng.
  • Quy định về thuế suất luỹ tiến trong thuế thu nhập thể hiện người có thu nhập cao thì nộp thuế nhiều, người có thu nhập thấp thì nộp thuế ít.
  • Nguồn thuế thu được, một phần được sử dụng để phân phối lại cho các đối tượng chính sách, khó khăn trong xã hội.

_Pháp luật thuế là công cụ góp phần đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và công bằng xã hội.  Hệ thống pháp luật thuế mới được áp dụng thống nhất chung cho các ngành nghề, các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư nhằm đảm bảo sự bình đẳng và công bằng xã hội về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi thế nhân và pháp nhân.   Sự bình đẳng và công bằng được thể hiện thông qua chính sách động viên giống nhau giữa các đơn vị, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế có những điều kiện hoạt động giống nhau, đảm bảo sự bình đẳng và công bằng.

_Vai trò điều tiết thu nhập của pháp luật thuế thể hiện ở sự tác động của pháp luật thuế đối với các quan hệ phân phối và sử dụng thu nhập trong xã hội.

_Sự vận động của nền kinh tế theo cơ chế thị trường đòi hỏi Nhà nước phải sử dụng đồng bộ nhiều công cụ khác nhau để khắc phục những sự mất cân đối về mặt xã hội trong đó có mất cân đối về thu nhập. Nhà nước sử dụng pháp luật thuế làm công cụ để điều hòa vĩ mô thu nhập trong xã hội. Sự điều tiết này thể hiện ở chổ thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước thực hiện việc điều tiết thu nhập của các đối tượng nộp thuế và các thành viên trong xã hội. Sự thay đổi của pháp luật thuế về cơ cấu các loại thuế trong hệ thống thuế, về thuế suất… đều có tác động đến thu nhập và sử dụng thu nhập trong xã hội.

_Hiện nay, xu hướng chung của các quốc gia là xây dựng các quy phạm pháp

luật thuế theo hướng hội nhập quốc tế, đơn giản hóa cơ cấu hệ thống thuế và thuế suất…Tuy vậy, việc thực hiện xu hướng chung đó không làm triệt tiêu vai trò của pháp luật thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường.

Như vậy: Thuế có vai trò quan trọng với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cả về mặt phục vụ yêu cầu chuyển hướng cơ cấu hợp lý, tiến bộ, hiện đại hạn chế tính cạnh tranh không lành mạnh, tính tự phát, tiêu cực của cơ chế thị trường, cả về mặt thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế  nhanh chóng có lợi cho quốc kế dân sinh, tăng trưởng và phát triển kinh tế.

III.Các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò của thuế trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.

1.Thực trạng thuế ở Việt Nam

_ Năng lực thuế thấp: chiếm tỷ trọng còn hạn chế trong tổng thu ngân sách nhà nước khoảng 60% trong khi đó các nước phát triển trên 90%(các nước Bắc âu trên 95%).Trong đó thì  Thuế nhập khẩu đóng góp tới 1/3 tổng thu ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, khoản thu này đang giảm đi do các hiệp định tự do hóa thương mại mà Việt Nam đang tham gia.

Thu từ thuế gián thu chiếm tỷ trọng lớn trong đóng góp ngân sách nhà nước, 46% trong giai đoạn 2001-2005.Các loại thuế gián thu ở Việt Nam bao gồm thuế xuất khẩu-nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, phí xăng, dầu.   Kể từ khi gia nhập WTO, thu thuế về xuất nhập khẩu, tiêu thụ đặc biệt và VAT hàng nhập khẩu bị giảm sút do cam kết hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Việc cắt giảm thuế quan theo các hiệp định đã ký kết dẫn đến tổng thu nhập nhập khẩu giảm theo.

Kinh tế thế giới khủng hoảng,và kinh tế Việt Nam cũng chịu tác động

mạnh,theo dự kiến thì tăng trưởng kinh tế năm 2009 chỉ đạt 5-6% (giảm khoảng 0,5-1,5%so với mức quốc hội thông qua). Chỉ số giá tiêu dùng tăng dưới 9%, sẽ làm cho Ngành thuế quản lý năm 2009 giảm thu khoảng 5-7%so với dự toán được giao.

Ngoài ra chính sách giãn thuế và giảm thuế cũng đã làm cho giảm thu thuế

5-6% so với được giao.thêm nữa là giá cả của dầu thô dao động trong khoảng 70USD cũng làm giảm thu ngân sách.

_Thất thu thuế lớn: Mặc dù ngành thuế ngày càng có nhiều nỗ lực, nhưng các biện pháp chống thất thu thuế chưa hữu hiệu, mới tận thu được với các đơn vị và công dân gương mẫu trong nghĩa vụ thuế, còn những người cố tình trốn thuế thì không bị chế tài. Tình trạng này không những thể hiện trong thuế thu nhập cá nhân (đối với người có thu nhập cao) mà thể hiện rất dễ thấy trong thuế giá trị gia tăng. Rất nhiều doanh nghiệp, khách sạn, cửa hàng… không làm hóa đơn cho khách hàng, còn khách hàng thì rất nhiều người cũng không có nhu cầu lấy hóa đơn (trừ những doanh nghiệp cần có hóa đơn để khấu trừ thuế giá trị gia tăng).

Phần lớn khoản doanh thu không nhỏ đó Nhà nước không thu được thuế, cả thuế giá trị gia tăng lẫn thuế thu nhập doanh nghiệp. Tình trạng đó không những gây tổn hại cho lợi ích của đất nước mà còn tạo ra sự bất bình đẳng về nghĩa vụ thuế của công dân, vô hình trung tạo thêm sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp.

_ Đang còn nhiều yếu kém và tiêu cực: Thủ tục thuế còn nhiều khoản chồng chất,giấy tờ còn gây nhiều phiền hà cho người nôp thuế.

Bộ máy quản lý nhà nước về thuế còn nhiều yếu kém,dẫn đến sai phạm trong

thu thuế và thất thu cho ngân sách nhà nước như đã nói ở trên.  Xảy ra tiêu cực trong 1 bộ phân cán bộ thuế,làm ảnh hưởng xấu đến ngành thuế.

2.Nguyên nhân

  • Chính sách thuế chưa hợp lý: quá phức tạp,chưa dễ hiểu và dễ áp dụng. Chính sách thuế vẫn còn phức tạp, một số sắc thuế còn nhiều mức thuế suất, lồng ghép nhiều chính sách xã hội, nhiều mức miễn giảm thuế làm hạn chế tính trung lập của thuế.
  • Trình độ chuyên môn và nhận thức của cán bộ thuế thấp dưới mức cần thiết để tính toán thu đúng,thu đủ trong khi mà phẩm chất nghề nghiệp chưa tốt cho nên còn tiếp tay,bảo kê cho tư thương.
  • Sự phát triển của nên kinh tế ở mức thấp gây khó khăn cho việc tính toán thu thuế,hệ thống kế toán,kiểm toán và chứng từ sổ sách cũng chưa phát triển
  • Nhận thức của quần chúng còn hạn chế.

Từ thực trạng và nguyên nhân trên, ta có đưa ra các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò của thuế trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.

3.Các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò của thuế trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế

_Cải tiến và hoàn thiện chính sách thuế ,hệ thống luật pháp nói chung và luật thuế nói riêng.

_Kiên quyết chống thất thu, nâng cao trình độ nghiệp vụ và nhận thức của mỗi cán bộ thu thuế, mặt khác cũng tăng cường thanh tra kiểm tra để phát hiện và xử lý ngay sai phạm.

_Cơ quan thuế các cấp sẽ thường xuyên tổ chức rà soát, đánh giá phân tích, dự báo những yếu tố ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách nhà nước trên địa bàn, làm rõ những khoản còn thất thoát, các nguồn thu còn tiềm năng.

_Tăng cường công tác phân tích, dự báo những tác động bất lợi từ việc suy giảm kinh tế, những tác động bất thường của giá cả, thị trường tín dụng trên thế giới và trong nước tác động đến tình hình thu nộp ngân sách nhà nước của khối doanh nghiệp để có những đề xuất, kiến nghị giải pháp kinh tế vĩ mô ngăn chặn đà suy giảm nguồn thu ngân sách nhà nước.

_Ngành Thuế tiếp tục theo dõi, phát hiện để có ý kiến đề nghị với các ngành, các cấp có thẩm quyền tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc về vốn, thị trường, giá cả, xử lý kịp thời các cơ chế chính sách gây ảnh hưởng xấu đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân đẩy mạnh hoạt động đầu tư, phát triển hình sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

­_Đặc biệt, công tác thanh tra, kiểm tra cần được ngành Thuế đẩy mạnh. Theo đó, ngành Thuế sẽ đẩy mạnh việc kiểm soát, xử lý triệt để các khoản nợ đọng thuế, trình cấp có thẩm quyền các biện pháp xử lý vướng mắc về nợ thuế, tập trung lực lượng triển khai các biện pháp thu hồi nợ thuế; triển khai các biện pháp cưỡng chế nợ thuế để thu hồi nợ đọng. Tổng cục Thuế đã giao chỉ tiêu và biện pháp thu nợ cho từng Cục Thuế để triển khai thực hiện.

_Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế để lựa chọn những đối tượng có dấu hiệu gian lận thuế, bổ sung vào kế hoạch thanh tra, kiểm tra, đặc biệt tập trung vào nhóm doanh nghiệp lớn, các Tập đoàn, Tổng công ty, các địa bàn trọng điểm có số thu lớn, các ngành hàng, các lĩnh vực, các loại hình tổchức có dấu hiệu thất thu lớn. Tổng hợp, rà soát kết quả sau thanh tra để có biện pháp xử lý đôn đốc, thu hồi kịp thời các khoản mà thanh tra đã kết luận vào nộp ngân sách nhà nước.

_Hệ thống hóa sổ sách chứng hoạt động kế toán kiểm toán.

_Tuyên truyền giáo dụa nhận thức của đối tượng chịu thuế kết hợp với thực hiện nghĩa vụ đóng thuế. Thực tế cho thấy rằng, một chính sách thuế dù được hoàn thiện đến đâu nhưng nếu các chủ thể của các quan hệ thuế không nắm bắt được những quy định cụ thể  trong các quy phạm pháp luật thuế thì chính sách thuế sẽ khó có tính khả thi. Chính vì vậy, việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật thuế có ý nghĩa rất quan trọng, quyết định sự vận dụng thành công hay không của chính sách thuế vào thực tiễn cuộc sống,có như vậy mới nâng cao ý thức của các  chủ thể.

_Đẩy mạnh dịch vụ tư vấn thuế: Để hiểu một cách cặn kẽ và thực hiện đúng đắn các quy định của chính sách thuế là một vấn đề không phải đơn giản đối với các đối tượng nộp thuế, nhất là khi thực hiện áp dụng cơ chế quản lý thu nộp thuế theo phương thức các đối tượng nộp thuế nào tự kê khai, tự tính và tự nộp thuế, bởi trong thực tiễn không phải đối tượng nộp thuế cũng có thể hiểu biết, nắm rõ và thực hiện đúng nghĩa vụ thuế của mình với Nhà nước. Do vậy, việc cung cấp dịch vụ tư vấn thuế là nhu cầu rất thiết thực của các đối tượng nộp thuế trong điều kiện hiện nay. Do vậy, việc khuyến khích hình thành và phát triển hoạt động dịch vụ tư vấn thuế không chỉ là nhiệm vụ của ngành thuế mà đó còn là nhiệm vụ chung của các cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức xã hội nhằm giúp cho các đối tượng nộp thuế hiểu biết rõ, kịp thời về chính sách thuế hiện hành của Nhà nước, hỗ trợ các đối tượng nộp thuế từ khâu đăng ký, kê khai nộp thuế, lập sổ sách kế toán, chứng từ hóa đơn về thuế, tính toán mức thuế và các khoản thuế phải nộp, … Đồng thời góp phần nâng cao ý thức chấp hành chính sách pháp luật, chấp hành nghĩa vụ thuế với Nhà nước của các đối tượng nộp thuế, góp phần nâng cao tính khả thi của chính sách thuế.

_Trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, khi Việt Nam gia nhập WTO, thuế là 1 vấn đề cần được quan tâm, cần phải phát huy vai trò của thuế trong hội nhập kinh tế quốc tế.  Thực tế cho thấy: Việc cắt giảm thuế nhập khẩu theo các cam kết WTO và tham gia các khu vực mậu dịch tự do sẽ ảnh hưởng nhiều đến nguồn thu ngân sách. Điều này cũng dễ hiểu khi số thu thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam hiện chiếm một tỷ trong khá lớn so với các nước đang phát triển; khoảng 13% tổng thu ngân sách từ phí và lệ phí. Bộ Tài chính đã dự tính, việc cắt giảm thuế sẽ làm giảm khoảng 10% số thu từ hoạt động xuất nhập khẩu.

Như vậy: việc cắt giảm thuế cần phải cân nhắc kỹ lưỡng để đưa nền kinh tế trong nước phát triển, cắt giảm thuế hợp lý sao cho ngân sách nhà nước không bị thâm hụt, không bị ảnh hưởng nhiều và các doanh nghiệp trong nước vẫn có điều kiện phát triển và cạnh tranh đối với doanh nghiệp nước ngoài.

Thuế có vai trò vô cùng quan trọng đối với 1 quốc gia, 1 nền kinh tế của 1 quốc gia. Hội nhập kinh tế quốc tế  tạo ra những cơ hội to lớn cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhưng cũng mang đến những thách thức không nhỏ đối với một nước đang phát triển ở trình độ thấp như nước ta hiện nay. Để  tận dụng cơ hội và để giảm thiểu những thách thức, Nhà nước phải sử  dụng có hiệu quả những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô, trong đó thuế là một công cụ hết sức quan trọng.

Tham khảo thêm:

1900.0191