Quy luật giá trị – lý luận và thực tiễn ở Việt Nam

Quy luật giá trị – lý luận và thực tiễn ở Việt Nam.

Một xã hội cần có những chính sách về phát triển kinh tế ngày một toàn diện và hiệu quả hơn sao cho đời sống tinh thần và vật chất của con người trong xã hội đó ngày một ổn định phong phú, nhưng để có được một xã hội như vậy không phải tự nhiên mà có. Thực tế đã chứng minh rằng việc phát triển kinh tế là một việc vô cùng khó khăn, đó là cuộc chạy đua sôi động giữa các nước trên thế giới nhằm đạt được một vị trí cao hơn trên thị trường quốc tế. Muốn thực hiện điều đó thì trong chính sách phát triển kinh tế của mỗi quốc gia đòi hỏi phải được dựa trên một nền tảng cơ sở lý thuyết vững chắc về các quy luật kinh tế, đặc biệt là quy luật giá trị. Chúng ta đã biết được quy luật giá trị là quy luật kinh tế quan trọng nhất của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Mọi hoạt động của các chủ thể kinh tế trong sản xuất và lưu thông hàng hóa đều chịu sự tác động của quy luật này. Đất nước Việt Nam ta đang đứng trước những khó khăn lớn về mọi mặt nhất là trong phát triển kinh tế, do đó chúng ta cẩn phải áp dụng những biện pháp phát triển kinh tế thật thận trọng, khẩn trương và làm sao để có hiểu quả nhất. Chính vì vậy việc áp dụng quy luật giá trị vào việc phát triển kinh tế là rất quan trọng. Chúng ta cần phải thật linh hoạt trong từng vấn đề, từng lĩnh vực của sự phát triển kinh tế. Để tìm hiểu kĩ hơn về vấn đề này, em xin chọn đề tại số 1: “Quy luật giá trị – lí luận và thực tiễn ở Việt Nam”.

1. Lí luận về quy luật giá trị và vai trò của quy luật giá trị:

1.1. Khái niệm quy luật giá trị:

            Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hóa. Ở đâu có có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự hoạt động của quy luật giá trị.

1.2. Nội dung quy luật giá trị:

            Tất cả các hoạt động kinh tế của con người đều chịu sự tác động của quy luật kinh tế nào đó. Quy luật giá trị là một trong những quy luật kinh tế có tác động mạnh đến các hoạt động kinh tế của con người. Quy luật giá trị là quy luật của nền sản xuất hàng hóa, biểu hiện nhu cầu khách quan của việc định hướng nền sản xuất và trau dồi theo các quan hệ tỷ lệ phản ánh hao phí lao động xã hội cần thiết. Giá trị là hình thức biểu hiện các hao phí đó trên cơ sở quy tất cả các loại lao động cụ thể thành lao động trừu tượng và quy lao động phức tạp thành lao động giản đơn. Giá trị là phương thức điều tiết các mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa trong quá trình trao đổi hoạt động.

            Quy luật giá trị hoạt động trong các hình thái xã hội khác nhau và trong hệ thống các quan hệ kinh tế của mối hình thái. Quy luật đó không thuộc về quy luật biểu hiện bản chất xã hội cơ bản của một hình thái xã hội nào, các biểu hiện cụ thể của nó phụ thuộc vào quy luật kinh tế cơ bản của phương thức sản xuất nhất định

            Trong sản xuất thì hao phí lao động cá biệt phải phù hợp với hao phí lao động xã hội cần thiết. Vì trong nền sản xuất hàng hóa, vấn đề đặc biệt quan trọng là hàng hóa sản xuất ra có bán được hay không. Để có thể bán được thì hao phí lao động để sản xuất ra hàng hóa của các chủ thể kinh doanh phải phù hợp với mức hao phí lao động xã hội có thể chấp nhận được. Mức hao phí càng thấp thì họ càng có khả năng phát triển kinh doanh, thu được nhiều lợi nhuận.

            Trong trao đổi hàng hóa cũng phải dựa vào hao phí lao động xã hội cần thiết, tức là tuân theo nguyên tắc trao đổi ngang giá, hai hàng hóa có giá trị sử dụng khác nhau, nhưng có lượng giá trị bằng nhau thì phải trao đổi ngang nhau.

            Đòi hỏi trên của quy luật là khách quan, đảm bảo sự công bằng, hợp lí, bình đẳng giữa những người sản xuất hàng hóa. Quy luật giá trị bắt buộc những người sản xuất và trao đổi hàng hóa phải tuân theo yêu cầu hay đòi hỏi của nó thông qua “mệnh lệnh” của giá cả thị trường. Tuy nhiên trong thực tế do sự tác động của nhiều quy luật kinh tế , nhất là quy luật cung cầu làm cho giá cả hàng hóa thường xuyên tách rời giá trị. Nhưng sự tách rời đó chỉ xoay quanh giá trị, C.Mác gọi đó là vẻ đẹp của quy luật giá trị. Trong vẻ đẹp này, giá trị hàng hóa là trục, giá cả thị trường lên xuống quanh trục đó. Đối với mỗi hàng hóa, giá cả của nó có thể cao thấp khác nhau, nhưng khi xét trong một khoảng thời gian nhất định, tổng giá cả phù hợp với tổng giá trị của nó.

            Giá cả thị trường tự phát lên xuống xoay quanh giá trị là biểu hiện sự hoạt động quy luật giá trị.

1.3. Các hình thức chuyển hóa quy luật giá trị:

            Tiền tệ là một loại hàng hóa đặc biệt được dùng để các hàng hóa khác biểu thị giá trị của mình. Giá trị hàng hóa được biểu thị ra bằng tiền gọi là giá cả hàng hóa.

            Trong giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản, sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị và tiền tệ tiêu vong

            Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, quy luật giá trị chuyển hóa thành quy luật giá cả sản xuất.

            Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, quy luật giá trị chuyển hóa thành quy luật giá cả độc quyền cao.

1.4. Mối quan hệ giữa giá cả, giá cả thị trường, giá cả độc quyền và giá trị hàng hóa.

   Ta xét mối quan hệ giữa giá cả, giá cả thị trường, giá cả độc quyền và giá trị hàng hóa:

            +) Giá cả: là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa. Giá trị là cơ sở của giá cả. Khi quan hệ cung cầu cân bằng, giá cả hàng hóa cao hay thấp là ở giá trị của hàng hóa quyết định. Trong điều kiện sản xuất hàng hóa, giá cả hàng hóa tự phát lên xuống xoay quanh giá trị tùy theo quan hệ cung cầu, cạnh tranh và sức mua của đồng tiền. Sự hoạt động của quy luật giá trị biểu hiện ở sự lên xuống của giá cả thị trường. Tuy vậy, sự biến động của giá cả vẫn có cơ sở là giá trị, mặc dù nó thường xuyên tách rời giá trị.

            +) Giá cả sản xuất là hình thái biến tướng của giá trị, nó bằng chi phí sản xuất của hàng hóa cộng với lợi nhuận bình quân.

                Trong giai đoạn tư bản tự do cạnh tranh do hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân nên hàng hóa không bán theo giá trị mà bán theo giá cả sản xuất.

            +) Giá trị hàng hóa chuyển thành giá cả sản xuất không phải là phủ nhận quy luật giá trị mà chỉ là biểu hiện cụ thể của quy luật giá trị trong giai đoạn tư bản tự do cạnh tranh.

            +) Giá cả độc quyền:

                        – Trong giai đoạn tư bản độc quyền, tổ chức độc quyền đã nâng giá cả hàng hóa lên trên giá cả sản xuất và giá trị. Giá cả độc quyền bằng chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận độc quyền. Lợi nhuận độc quyền vượt quá lợi nhuận bình quân.

                        – Khi nói giá cả độc quyền thì thường hiểu là giá cả bán ra cao hơn giá cả sản xuất và giá trị, đồng thời cũng cần hiểu còn có giá cả thu mua rẻ mà tư bản độc quyền mua của người sản xuất nhỏ, tư bản vừa và nhỏ ngoài độc quyền.

                        – Giá cả độc quyền không xóa bỏ giới hạn của giá trị hàng hóa, nghĩa là giá cả độc quyền không thể tăng thêm hoặc giảm bớt giá trị và tổng giá trị thặng dư do xã hội sản xuất ra; phần giá cả độc quyền vượt quá giá trị chính là phần giá trị mà những người bán (công nhân, người sản xuất nhỏ, tư bản vừa và nhỏ…) mất đi. Nhìn vào phạm vi toàn xã hội, toàn bộ giá cả độc quyền cộng với giá cả không độc quyền về đại thể bằng toàn bộ giá trị.

1.5. Cơ chế biểu hiện của quy luật giá trị:

      +) Quy luật giá trị hoạt động được thể hiện ở sự biến đổi lên xuống của giá cả xoay quanh giá trị dưới tác động của quan hệ cung – cầu hàng hóa trên thị trường.

      +) Nếu sức mua đồng tiền không đổi, không kể đến điều tiết của nhà nước và độc quyền thì xảy ra 03 trường hợp sau:

  • Khi cung = cầu, thì giá cả = giá trị
  • Khi cung > cầu, thì giá cả < giá trị
  • Khi cung < cầu, thì giá cả > giá trị

        Tuy nhiên, xét tổng thể thì tổng giá cả luôn bằng tổng giá trị.

      +) Trong nền sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực. Đó là: điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa; kích thích tiến bộ, nâng cao năng suất lao động; phân hóa những người sản xuất hàng hóa thành giàu – nghèo.

1.6. Vai trò của quy luật giá trị:

      +) Quy luật giá trị điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa:

            Trong sản xuất, quy luật giá trị điều tiết việc phân phối tư liệu sản xuất và sức lao động giữa các ngành sản xuất thông qua sự biến động của giá cả hàng hóa. Như em đã nói ở trên, do ảnh hưởng của quan hệ cung cầu giá cả hàng hóa trên thị trường lên xuống xoay quanh giá trị của nó. Nếu một ngành nào đó, cung không đáp ứng cầu, giá cả hàng hóa lên cao thì những người sản xuất sẽ mở rộng quy mô sản xuất. Những người đang sản xuất hàng hóa sẽ thu hẹp quy mô sản xuất để chuyển sang sản xuất loại hàng hóa này. Như vậy, tư liệu sản xuất, sức lao động và vốn được chuyển vào ngành này tăng lên, cung về loại hàng hóa này trên thị trường sẽ tăng cao. Ngược lại khi ngành đó thu hút quá nhiều lao động xã hội, cung vượt cầu, giá cả hàng hóa hạ xuống, thì người sản xuất sẽ phải chuyển bớt tư liệu sản xuất và sức lao động ra khỏi ngành này để đầu tự vào nơi có giá cả hàng hóa cao. Nhờ vậy mà tư liệu sản xuất và sức lao động được phân phối qua lại một cách tự phát vào các ngành này để đầu tư vào nơi có giá cả hàng hóa cao. Nhờ vậy mà tư liệu sản xuất và sức lao động được phân phối qua lại một cách tự phát vào các ngành sản xuất khác nhau. Ở đây ta thấy rằng sự biến động của giá cả xung quanh giá trị không những chỉ rõ sự biến động về kinh tế mà còn có tác động điều tiết nền kinh tế.

            Ngoài ra ta còn thấy quy luật giá trị cũng điều tiết và lưu thông hàng hóa. Hàng hóa bao giờ cũng vận động từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao. Quy luật giá trị có tác dụng điều tiết sự vận động đó, phân phối các nguồn hàng hóa một cách hợp lí hơn trong nước.

      +) Quy luật giá trị kích thích cải tiến kĩ thuật, hợp lí hóa sản xuất nhằm tăng năng xuất lao động:

            Trong nền kinh tế hàng hóa, người sản xuất hàng hóa nào cũng mong có nhiều lãi. Người có nhiều lãi hơn là người có thời gian lao động cá biệt ít hơn hoặc bằng thời gian lao động xã hội cần thiết. Còn những người có thời gian lao động cá biệt lớn hơn thời gian lao động xã hội cần thiết thì sẽ bị lỗ không thu về được toàn bộ lao động đã hao phí. Muốn đứng vững và thắng trong cạnh tranh, mỗi người sản xuất đều luôn tìm cách rút xuống đến mức tối thiểu thời gian lao động cá biệt. Muốn vậy, những người sản xuất phải tìm mọi cách cải tiến kĩ thuật, nâng cao trình độ tay nghề, sử dụng thành tựu mới của khoa học, kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lí của sản xuất, thực hiện tiết kiệm chặt chẽ. Sự cạnh tranh quyết liệt càng thúc đẩy các quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn, kết qủa là năng suất lao động tăng lên nhanh chóng. Ngoài ra để có thể thu được nhiều lãi, người sản xuất hàng hóa còn phải thường xuyên cải tiến chất lượng, mẫu mã hàng hóa cho phù hợp nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng, cải tiến các biện pháp lưu thông, bán hàng để tiết kiệm chi phí lưu thông và tiêu thị sản phẩm nhanh. Vì vậy quy luật giá trị có tác dụng thúc đẩy sản xuất hàng hóa nhiều, nhanh, tốt, rẻ hơn.

      +) Quy luật giá trị phân hóa những người sản xuất hàng hóa thành kẻ giàu người nghèo, làm phát sinh và phát triển quan hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa:

            Trong cuộc cạnh tranh chạy theo giá trị, lao động cá biệt của mỗi người sản xuất có thể không nhất trí với lao động xã hội cần thiết. Những người làm tốt, làm giỏi có năng suất lao động cá biệt thấp hơn thời gian lao động xã hội cần thiết và nhờ đó họ phát tài, làm giàu, mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất. Bên cạnh đó những người làm ăn kém, không may mắn, thời gian lao động cá biệt lớn hơn thời gian lao động xã hội cần thiết nên bị lỗ vốn thậm chí đi đến phá sản. Như vậy, quy luật giá trị có ý nghĩa đánh giá người sản xuất, kích thích những yếu tố tích cực phát triển và đào thải các yếu tố kém. Nó đảm bảo sự bình đẳng đối với người sản xuất. Sự phân hóa này là kết quả tự nhiên sản xuất hàng hóa dựa trên chế độ tư hữu.

2. Thực tiễn việc vận dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế ở Việt Nam:

2.1. Việc vận dụng quy luật giá trị vào những năm nền kinh tế bao cấp:

            Trong thời kì này chúng ta đã có cách hiểu không đúng về việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng, bình đẳng xã hội, do đó việc vận dụng quy luật giá trị đã có những thiếu sót, sai lệch. Hậu quả là đã làm triệt tiêu những nhân tố tích cực, năng động của xã hội. Khiến cho nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ, kém phát triển.

2.2. Việc vận dụng quy luật giá trị thời gian trong thời kì đổi mới:

Trong thời kỳ đổi mới, chúng ta phát triển nền sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị hoạt động, tạo nên sự cạnh tranh, phát triển kinh tế… Bên cạnh đó, cũng nảy sinh những mặt trái như: phân hóa giàu – nghèo, buôn bán gian lận…

Hiện nay nước ta đang hội nhập theo nền kinh tế thế giới với chính sách mở cửa hợp tác với các nước. Đảng ta đã đưa ra quan điểm “Một nền kinh tế phát triển theo mô hình nền kinh tế nhiều thành phần, theo định hướng xã hội chủ nghĩa và dưới sự quản lý của nhà nước“. Trong quá trình phát triển nền kinh tế, nước ta chịu tác động của nhiều nhân tố khách quan, một trong những nhân tố khách quan chủ yếu là quy luật giá trị.

Việt Nam sau hơn 30 năm đổi mới, dưới tác động của quy luật giá trị và vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu nhất định trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là về kinh tế. Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với 90% dân số làm nông nghiệp, Việt Nam đã xây dựng được cơ sở vật chất – kỹ thuật, hạ tầng kinh tế – xã hội từng bước đáp ứng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo ra môi trường thu hút nguồn lực xã hội cho phát triển dài hạn và bền vững.

Trong đó, tăng trưởng kinh tế với tốc độ khá cao trong khu vực và trên thế giới. Năm 2017, tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt 6,81%, cao nhất trong 10 năm trở lại đây.Lạm phát được kiểm soát tốt giúp kinh tế vĩ mô phát triển ổn định.

Về cơ cấu GDP theo ngành đã có chuyển dịch tích cực theo hướng giảmtỷ trọng của khu vực nông – lâm – ngư nghiệp và tăng tỷ trọng của khu vựccông nghiệp xây dựng và dịch vụ. Đến nay, đóng góp vào tăng trưởng của 02 ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 90% tăng trưởng toàn ngành kinh tế. Tuy nhiên tốc độ chuyển dịch còn chậm.

Bên cạnh những tác động tích cực, quy luật giá trị cũng có những tác động tiêu cực đến nền kinh tế nước ta như phân hóa giàu – nghèo, cạnh tranh không lành mạnh giữa các chủ thể sản xuất, buôn bán gian lận…Vì vậy, cần phải nghiên cứu kỹ quy luật giá trị để có những hiểu biết thêm về những biểu hiện mới của nó từ đó có những chính sách và hướng đi rõ ràng cụ thể để nước ta ngày càng phát triển đi lên.

Trong thời gian tới, để phát huy những tác động tích cực, hạn chế những tác động tiêu cực của quy luật giá trị vào nền kinh tế thị trường, chúng ta cần nắm vững nội dung, cơ chế hoạt động của quy luật giá trị trong nền kinh tế, từ đó vận dụng vào các lĩnh vực một cách đúng đắn để hạn chế những tác động tiêu cực của quy luật giá trị đối với quá trình phát triển kinh tế thị trường ở nước ta.

2.3. Vận dụng quy luật giá trị vào lĩnh vực sản xuất:

      +) Một nguyên tắc căn bản của kinh tế thị trường là trao đổi ngang giá tức là thực hiện sự trao đổi hàng hóa thông qua thị trường, sản phẩm phải trở thành hàng hóa. Nguyên tắc này đòi hỏi tuân thủ quy luật giá trị – sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở thời gian lao động xã hội cần thiết. cụ thể:

  • Xét ở tầm vi mô: Mỗi cá nhân khi sản xuất các sản phẩm đều cố gắng làm cho thời gian lao động cá biệt nhỏ hơn thời gian lao động xã hội.
  • Xét ở tầm vĩ mô: Mỗi doanh nghiệp đều cố gắng nâng cao nắng suất lao động, chất lượng sản phẩm, giảm thời gian lao động xã hội cần thiết.

 Do vậy, nhà nước đưa ra các chính sách để khuyến khích nâng cao trình độ chuyên môn. Mỗi doanh nghiệp phải cố gắng cải tiến máy móc, mẫu mã, nâng cao tay nghề lao động. Nếu không quy luật giá trị ở đây sẽ thực hiện vai trò đào thải nó. Tất yếu điều đó dẫn tới sự phát triển của lực lượng sản xuất mà trong đó đội ngũ lao động có tay nghề chuyên môn ngày càng cao, công cụ lao động luôn luôn được cải tiến. Và cùng với nó, sự xã hội hóa, chuyên môn hóa lực lượng sản xuất cũng được phát triển. Đây là những vẫn dụng đúng đắn của nhà nước ta.

      +) Vận dụng quy luật giá trị đối với việc hoạch toán kinh tế của các doanh nghiệp:

Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, mỗi doanh nghiệp là người sản xuất hàng hóa cạnh tranh gay gắt với nhau, để đứng vững được trên thị trường, chiến thắng đối thủ cạnh tranh thì họ phải tính đến hiệu quả sản xuất kinh doanh thông qua các hình thức giá trị, giá cả, lợi nhuận, chi phí… Để có lợi nhuận, các doanh nghiệp phải tìm cách hạ thấp chi phí sản xuất bằng cách hợp lý hóa sản xuất, tiết kiệm chi phí vật chất, tăng năng suất lao động… Để làm được điều đó, doanh nghiệp phải nắm vững và vận dụng tốt quy luật giá trị trong hoạch toán kinh tế. Thời gian qua ta thấy có rất nhiều doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, điều đó cho thấy các doanh nghiệp đã vận dụng khá tốt quy luật giá trị vào hoạch toán kinh tế.

Đối với các doanh nghiệp Nhà nước, để tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, Nhà nước ta đã quyết định cổ phần hóa phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước, và Nhà nước chỉ giữ lại một số ngành có tính chất an ninh quốc gia. Các doanh nghiệp rồi sẽ dần chuyển thành các công ty cổ phần với nhiều chủ sở hữu và mỗi cổ đông sẽ vì lợi ích của mình để đầu tư vào sản xuất, hoạch toán kinh tế sao cho lợi nhuận càng nhiều càng tốt. Bởi vậy, việc vận dụng quy luật giá trị vào hoạch toán kinh tế của mỗi công ty cổ phần thời kỳ này là một việc hết sức quan trọng và cần thiết đối với mỗi công ty cổ phần.

      +) Vận dụng quy luật giá trị đối với việc hình thành giá cả sản xuất:

Thời kỳ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, tất cả giá cả các mặt hàng đều do Chính phủ kiếm soát. Sau năm 1986, nền kinh tế nước ta chuyển sang sản xuất hàng hóa thì giá cả là do thị trường quyết định. Nhà nước ta cũng xác định, thời kỳ này giá cả phải vận dụng tổng hợp các quy luật, trong đó quy luật giá trị có tác động trực tiếp. Giá cả phải do giá trị quyết định. Tuy nhiên, trên tực tế giá cả hàng hóa chịu tác động của nhiều yếu tố như cung – cầu, cạnh tranh, sức mua đồng tiền, giá các mặt hàng liên quan… không thể giữ giá theo ý muốn chủ quan của Nhà nước. Qua đây cho ta thấy ngay trong Nhà nước cũng đã nhận ra được vai trò quan trọng của quy luật giá trị trong việc hình thành giá cả trong nền kinh tế thị trường.

2.4. Vận dụng quy luật giá trị vào lĩnh vực lưu thông hàng hóa.

Trong lĩnh vực lưu thông, quy luật giá trị yêu cầu trao đổi phải theo nguyên tắc ngang giá, tức giá cả bằng giá trị. Dưới tác động quy luật giá trị, hàng hóa trong nền kinh tế sẽ được đưa từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao, từ nơi cung nhiều đến nơi cầu nhiều. Thông qua sự biến động về giá cả trên thị trường, luồng hàng hóa sẽ lưu thông từ đó tạo sự cân đối về nguồn hàng giữa các vùng miền.

Đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam, thông qua hệ thống giá cả quy luật giá trị có ảnh hưởng nhất định đến việc lưu thông của một hàng hóa nào đó. Giá mua cao sẽ khơi thêm nguồn hàng, giá bán hạ sẽ thúc đẩy mạnh việc tiêu thụ và ngược lại. Do đó mà Nhà nước ta đã vận dụng vào việc định giá cả sát giá trị, xoay quanh giá trị để kích thích cải tiến kỹ thuật, tăng cường quản lý. Không những thế Nhà nước ta còn chủ động tách giá cả khỏi giá trị với từng loại hàng hóa trong từng thời kỳ nhất định, lợi dụng sự chênh lệch giữa giá cả và giá trị để điều tiết một phần sản xuất và lưu thông, điều chỉnh cung cầu và phân phối. Giá cả được coi là một công cụ kinh tế quan trọng để kế hoạch hóa sự tiêu dùng của xã hội. 

Ví dụ: giá cả của sản phẩm công nghiệp nặng lại đặt thấp hơn giá trị để khuyến khích sự đầu tư phát triển, áp dụng kỹ thuật vào sản xuất. Tuy nhiên, sự điều chỉnh này ở nước ta không phải bao giờ cũng phát huy tác dụng tích cực, nhiều khi những chính sách này lại làm cho giá cả bất ổn, tạo điều kiện cho hàng hóa nước ngoài tràn vào nước ta do giá cả hợp lý hơn. 

Bên cạnh những tác động tích cực thì còn có những hạn chế. Do chạy theo lợi nhuận, do tính cạnh tranh cao trong nền kinh tế nên xuất hiện tình trạng gian lận trong buôn bán, hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng xuất hiện tràn lan trên thị trường…Ở Việt Nam, theo đánh giá của cơ quan chức năng, hàng giả, hàng nhái đang len lỏi vào thị trường một cách công khai. Thực trạng hàng giả hàng nhái hiện nay là một vấn nạn xã hội chưa hề có dấu hiệu thuyên giảm, thậm chí đang ngày một gia tăng. Thị trường băng đĩa CD, VCD, DVD ở Việt Nam là một ví dụ điển hình cho hiện tượng này. Theo thống kê, đối với mặt hàng mỹ phẩm, khoảng 75% thị phần mỹ phẩm bán ngoài thị trường là hàng giả và hàng nhập lậu, hàng chính hãng chỉ có 25% còn lại. Đặc biệt, 100% các sản phẩm nước hoa và sáp vuốt tóc bày bán tại các chợ không phải hàng thật. Nhiều sản phẩm mỹ phẩm của nước ngoài chưa hề được công bố cũng đã được bán tại nhiều chuỗi cửa hàng của Việt Nam trong đó có cả những chuỗi cửa hàng danh tiếng. Từ những hạn chế đó, Nhà nước với vai trò quản lý vĩ mô nền kinh tế cần đưa ra những chính sách thiết thực, hiệu quả để khắc phục những hạn chế, đồng thời phát huy mặt tích cực.

3. Giải pháp nhằm vận dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế ở Việt Nam trong thời gian tới.

      +) Đầu tư vào việc nghiên cứu, ứng dụng và triển khai khóa học công nghệ:

            Trong tình trạng nước ta còn thiếu thốn trầm trọng khoa học kĩ thuật như hiện nay, nước ta cần phải hỗ trỡ nhiều hơn nữa kinh phí cho các nghiên cứu, các đề tài nghiên cứu phục vụ trực tiếp cho việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuấ, thực hiện cơ chế đặt hàng trực tiếp giữa nhà nước, doanh nghiệp và các cơ sở nghiên cứu khoa học, tránh tình trạng bỏ phí vốn đầu tư do tách rời giữa sản phẩm nghiên cứu và thực tiễn. Tăng kinh phí đào tạo, nhất là đào tạo mới và đào tạo bổ sung đội ngũ lao động chất lượng cao. Đặc biệt chú trọng đội ngũ công nhân lành nghề, giỏi việc, làm chủ được những công nghệ mới.

            Tiếp theo phải nâng cao trình độ văn hóa cho nguồn nhân lực, phấn đấu phổ cập phổ thông cơ sở và phổ thông trung học đối với những đối tượng và những vùng có điều kiện nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp thu các kiến thức trong đào tạo chuyên môn kĩ thuật cho người lao động. Thực hiện chính sách phân luồng học sinh sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở để tạo ra cơ cấu đào tạo hợp lí.

      +) Để phát huy các tác động tích cực, đẩy lùi các tác động tiêu cực của kinh tế thị trường cần nâng cao vai trò quản lí của nhà nước thông qua quy hoạch, kế hoạch, công cụ tài chính, qua các phương thức kích thích, giáo dục, thuyết phục và cả cưỡng chế:

  • Phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là trung tâm: đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng của nhà nước ta. Phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa để từ đó tạo đà để thực hiện những nhiệm vụ khác, đưa nước ta nhanh chóng phát triển, tiếp theo con đường xã hội chủ nghĩa.
  • Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.
  • Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường, tăng cường vai trò quản lí kinh tế của nhà nước
  • Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: đây là nhiệm vụ nhằm vận dụng tốt hơn quy luật giá trị vào nền kinh tế nước ta.
  • Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an kinh quốc gia.

      +) Lưu thông hàng hóa, tăng khả năng cạnh tranh hàng hóa của Việt Nam.

            Một trong những yếu tố then chốt để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam là cơ cấu lại và tăng cường năng lực cạnh tranh của khu vực doanh nghiệp, trong đó có vai trò quan trọng của khu vực nhà nước vì khu vực này nắm phần lớn tài sản quốc gia, nguồn lao động kĩ thuật, tài nguyên và giữ vai trog chủ đạo trong các thành phần kinh tế. Khu vực doanh nghiệp cần xây dựng được chương trình cắt giảm chi phí sản xuất trong từng công đoạn sản xuất với từng sản phẩm. Nhà nước thực hiện chính sách khuyến khích nghiên cứu áp dụng đổi mới công nghệ, đầu tư đổi mới thiết bị sản xuất. Tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, xây dựng khuôn khổ chính sách tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiến hành cơ cấu lại sản xuất có hiệu quả, tăng khả năng cạnh tranh. Hạn chế độc quyền của các doanh nghiệp, nhà nước chỉ thực hiện trợ giá những mặt hàng thiết yếu quan trọng và một số mặt hàng nông sản xuất khẩu.

            Thực hiện chính sách hỗ trợ có điều kiện trong một khoảng thời gian nhất định để dần dần tăng năng lực cạnh tranh của một số sản phẩm, mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu. Bằng cách mở rộng quan hệ với các quốc gia, các nước, hỗ trỡ xúc tiến thương mại ở các thị trường giàu tiềm năng. Tăng cường đầu tư vào hoạt động nghiên cứu thị trường, hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài.

            Giải pháp phát triển nguồn nhân lực phải đặc biệt coi trọng. Trong thời gian tới cần đầu tư cho đào tạo và đào tạo lại, nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo lên trên 30% số lao động hiện có, trong đó chú trọng đào tạo nghề công nghệ cao.

      +) Nhà nước cần chú ý hơn tới vấn đề đồng bộ hệ thống thị trường ở nước ta: ở nước ta một số loại thị trường phát triển nhanh chóng, phát huy được hiệu quả trong nền kinh tế thị trường, trong khi đó một số loại thị trường còn rất sơ khai, chưa hình thành một cách đầy đủ, vì thế nhà nước cần có những biện pháp để vực dậy một số thị trường đó.

      +) Nhà nước ta khi vận dụng quy luật giá trị phải xuất phát từ nhiều quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội, căn cứ vào nhiệm vụ kinh tế, chính trị trong từng thời kì.

* Kết luận: Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của nền sản xuất hàng hóa. Sự ra đời và hoạt động của quy luật này gắn liền với sản xuất và lưu thông hàng hóa. Trên đây là bài làm của em với chủ đề lí luận về quy luật giá trị và những thực tiễn ở Việt Nam. Việc vận dụng quy luật giá trị vào phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có ý nghĩa vô cùng to lớn, giúp nền kinh tế Việt Nam phát triển theo kịp trình độ các nền kinh tế phát triển trên thế giới. Tuy nhiên, Nhà nước với vai trò quản lý vĩ mô nền kinh tế cần có những giải pháp để hạn chế những tác động tiêu cực của quy luật giá trị tới nền kinh tế, giúp nền kinh tế Việt Nam phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững.

Các bài luận liên quan:

1900.0191