NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN KHI VIỆT NAM THAM GIA HỘI NHẬP VÀ LIÊN KẾT QUỐC TẾ

NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN KHI VIỆT NAM THAM GIA HỘI NHẬP VÀ LIÊN KẾT QUỐC TẾ.

Tham gia vào một sân chơi kinh tế lớn là mục tiêu và mong muốn của những quốc gia có nền kinh tế đang phát triển. Việc này sẽ tạo thuận lợi, bước nhảy vọt và thúc đẩy cho các ngành kinh tế nội địa thay đổi, hoàn thiện hơn.

Tuy nhiên, không bao giờ là dễ dàng để hòa mình vào một môi trường với những cường quốc và những đối thủ mạnh ngay lập tức, vì thế việc hội nhập và liên kết luôn cần một kế hoạch, một quá trình để có thể từng bước làm quen và phát triển thế mạnh của đất nước.

NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN KHI VIỆT NAM THAM GIA HỘI NHẬP VÀ LIÊN KẾT QUỐC TẾ

I. GIỚI THIỆU

Toàn cầu hoá kinh tế là xu thế tất yếu trên phạm vi toàn cầu. Theo xu thế chung của thế giới, Việt Nam đã và đang từng bước cố gắng chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.

II.NỘI DUNG

KHÁI NIỆM HỘI NHẬP KINH TẾ

Là quá trình chủ động thực hiện đồng thời hai việc:

– Một mặt, gắn nền kinh tế và thị trường từng nước với thị trường khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực thực hiện mở cửa và thúc đẩy tự do hóa nền kinh tế quốc dân;

– Mặt khác, gia nhập và góp phần xây dựng các thể chế kinh tế khu vực và toàn cầu

Các đặc trưng hội nhập kinh tế quốc tế:

  • Hội nhập kinh tế là sự phát triển cao của phân công lao động quốc tế
  • Hội nhập kinh tế là sự phối hợp mang tính chất xuyên quốc gia giữa hai hay nhiều nước độc lập có chủ quyền trong một hay nhiều hiệp định kinh tế thương mại.
  • Hội nhập kinh tế khu vực và song phương được xem và giải pháp trung hòa giữa hai xu hướng đối lập nhau trên thị trường thế giới.
  • Hội nhập kinh tế khu vực và song phương luôn là một hành động tự giác, tích cực của các thành viên nhằm phối hợp và điều chỉnh các chương trình kinh tế với những thỏa thuận có đi có lại của các nước thành viên

NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN

1. Thuận lợi

– Khắc phục được tình trạng bị phân biệt đối xử trong buôn bán quốc tế.

– Đẩy mạnh thương mại và quan hệ của Việt Nam với các nước trên thế giới.

Việt Nam sẽ có lợi từ việc cải thiện hệ thống giải quyết tranh chấp khi có quan hệ với các cường quốc thương mại chính

Việt Nam sẽ có điều kiện thu hút vốn, kinh nghiệm quản lý và công nghệ mới… của nước ngoài

Nâng cao khả năng cạnh tranh và tính hiệu quả trong nền kinh tế, đồng thời tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp Việt Nam

Tạo điều kiện mở rộng thị phần quốc tế cho các sản phẩm Việt Nam và thúc đẩy thương mại phát triển.

2. Khó khăn

Cạnh tranh trở nên quyết liệt hơn, gây sức ép không nhỏ đối với nhiều doanh nghiệp. nhất là những doanh nghiệp đã quen với sự trợ giúp của Nhà nước, những doanh nghiệp có tiềm lực tài chính và công nghệ yếu kém.

Hội nhập kinh tế quốc tế với sự chuyển dịch tự do qua biên giới các yếu tố của quá trình tái sản xuất hàng hóa và dịch vụ tiềm ẩn nhiều rủi ro, trong đó có cả những rủi ro về mặt xã hội.

Thể chế kinh tế nước ta đang còn quá phức tạp, rườm rà khiến các nhà đầu tư e ngại khi đầu tư vào Việt Nam.

Đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước và đội ngũ doanh nhân chưa đủ mạnh đễ quản lý nền kinh tế.

Hội nhập kinh tế quốc tế dẫn đến sự hợp tác về an ninh và văn hóa. Đồng thời, việc mở cửa thị trường, mở rộng giao lưu trong điều kiện bùng nổ thông tin hiện nay, bên cạnh nhiều mặt tốt, những cái xấu cũng du nhập vào gây ảnh hưởng không tốt đến truyền thống văn hóa Việt Nam.

GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC

– Xây dựng cơ sở vật chất hạ từng nhằm thu hút đấu tư nước ngoài. Ứng dụng công nghệ khoa học kỷ thuật vào sản xuất nhằm khắc phục tình trạng lạc hậu và trì trệ trong sản xuất ở các doanh nghiệp.

– Đề ra được những chính sách đúng đắn nhằm tăng cường khả năng kiểm soát vĩ mô, nâng cao tính năng động và khả năng thích ứng nhanh của toàn bộ nền kinh tế, củng cố và tăng cường các giải pháp an sinh xã hội để khắc phục những khó khăn ngắn hạn.

– Phải liên tục hoàn thiện môi trường kinh doanh để thu hút đầu tư và phát huy mọi tiềm lực của tất cả các thành phần kinh tế. Đồng thời không ngừng hoàn thiện các quy định về cạnh tranh để bảo đảm một môi trường cạnh tranh lành mạnh và công bằng khi hội nhập.

– Tạo ra được một nền hành chính công khai hơn, minh bạch hơn và hiệu quả hơn, một nền hành chính vì quyền lợi chính đáng của mọi người dân, trong đó có doanh nghiệp và doanh nhân, lấy người dân, doanh nghiệp, doanh nhân làm trọng tâm phục vụ, khăc phục mọi biểu hiện trì trệ, thờ ơ và vô trách nhiệm

– Cần phải đào tạo một đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước và đội ngũ doanh nhân đủ mạnh, có năng lực và phẩm chất tốt.

– Các cấp lãnh đạo, quản lý và mọi người dân phải nâng cao bản lĩnh chính trị, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc nhằm nâng cao sức đề kháng, chống lại sự tha hóa, biến chất, chống lại lối sống hưởng thụ, tự do tư sản…

III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN

1. Kết luận

– Việc Việt Nam tham gia hội nhập và liên kết quốc tế là một tất yếu khách quan, việc hội nhập kinh tế quốc tế đưa đến cho Việt Nam rất nhiều cơ hội mới trong sự nghiệp phát triển kinh tế cũng như những thách thức mà chúng ra cần giải quyết để tiến tới hội nhập kinh tế quốc tế.

– Nắm bắt thời cơ, vượt qua những thách thức rất lớn, phát huy cao độ nội lực, khai thác tối đa các nguồn lực bên ngoài để tạo thế lực mới cho công cuộc phát triển kinh tế, xã hội, nhất định đất Việt Nam sẽ tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng nước kém phát triển vào năm 2010 và trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020

2. Kiến nghị

– Tiếp tục tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho hoạt động thương mại quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam.

– Cần có Chiến lược tổng thể về đàm phán các hiệp định thương mại song phương (FTA), trong đó nêu ra những mục tiêu, tiêu chí, đối tượng cần xúc tiến đàm phán nên trong quá trình đàm phán thường gặp những vấn đề nảy sinh chưa dự kiến được.

– Công tác phối hợp giữa các Bộ, ngành trong hội nhập KTQT phải chặt chẽ hơn nữa, có quy chế phối hợp giữa các cơ quan trung ương với nhau, giữa các cơ quan trung ương với các địa phương và giữa trong nước với Đoàn đàm phán.

3. Cấp ủy Đảng đang can thiệp khá sâu hoạt động chính quyền

Hội nhập kinh tế quốc tế là thách thức với mọi nền kinh tế, kể cả các nền kinh tế có trình độ phát triển cao hơn Việt Nam. Thách thức này càng khắc nghiệt hơn khi chúng ta là một nước đang phát triển đồng thời là nền kinh tế chuyển đổi.

Trong bản tham luận của mình tại ĐH sáng nay (20/4), Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển thay mặt Ban cán sự Đảng bộ Thương mại nhận định, Hội nhập kinh tế quốc tế mở ra thị trường rộng lớn để xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ; tạo điều kiện cho ta tiếp nhận vốn, công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý; các khoản vay ưu đãi từ các nước… Đây là những nguồn lực to lớn góp phần đưa nền kinh tế nước ta có những bước phát triển mạnh mẽ trong những năm vừa qua.

4. Thách thức lớn của quá trình hội nhập

Những lợi ích của hội nhập kinh tế đã rõ ràng. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt thuận lợi ấy, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt ra 6 thách thức to lớn.

Một là, cạnh tranh trở nên quyết liệt hơn. Cạnh tranh không chỉ giữa doanh nghiệp nước ta với doanh nghiệp các nước trên thị trường nước ngoài để xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ mà cạnh tranh ngay trên thị trường trong nước. Điều đó gây sức ép không nhỏ đối với nhiều doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp đã quen với sự trợ giúp của Nhà nước, những doanh nghiệp có tiềm lực tài chính và công nghệ yếu kém mà tình trạng này lại khá phổ biến ở doanh nghiệp nước ta.

Hai là, hội nhập kinh tế quốc tế với sự chuyển dịch tự do qua biên giới các yếu tố của quá trình tái sản xuất hàng hóa và dịch vụtiềm ẩn nhiều rủi ro, trong đó có cả những rủi ro về mặt xã hội. Thách thức ở đây là đề ra được những chính sách đúng đắn nhằm tăng cường khả năng kiểm soát vĩ mô, nâng cao tính năng động và khả năng thích ứng nhanh của toàn bộ nền kinh tế, củng cố và tăng cường các giải pháp an sinh xã hội để khắc phục những khó khăn ngắn hạn. Tóm lại, phải tạo dựng được môi trường để quá trình chuyển dịch cơ cấu và bố trí lại nguồn lực diễn ra một cách suôn sẻ, với chi phí thấp.

Ba là, hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra những yêu cầu hết sức cấp bách cho việc bổ sung và hoàn thiện thể chế. Trong thời gian qua, mặc dù đã có nhiều nỗ lực để hoàn thiện khuôn khổ pháp luật có liên quan đến kinh tế và thương mại nhưng chúng ta vẫn còn rất nhiều việc phải làm. Trước hết, phải liên tục hoàn thiện môi trường kinh doanh để thu hút đầu tư và phát huy mọi tiềm lực của tất cả các thành phần kinh tế. Đồng thời không ngừng hoàn thiện các quy định về cạnh tranh để bảo đảm một môi trường cạnh tranh lành mạnh và công bằng khi hộp nhập.

Bốn là, hội nhập kinh tế quốc tế cũng đã làm bộc lộ nhiều bất cập của nền hành chính quốc gia. Do một trong những nguyên tắc chủ đạo của WTO là minh bạch hóa nên khi gia nhập WTO, nền hành chính quốc gia chắc chắn sẽ phải có sự thay đổi theo hướng công khai hơn, minh bạch hơn và hiệu quả hơn. Đó phải là nền hành chính vì quyền lợi chính đáng của mọi người dân, trong đó có doanh nghiệp và doanh nhân, lấy người dân, doanh nghiệp, doanh nhân làm trọng tâm phục vụ, khăc phục mọi biểu hiện trì trệ, thờ ơ và vô trách nhiệm. Nếu không tạo ra được một nền hành chính như vậy thì chẳng những không tận dụng được các cơ hội do hội nhập kinh tế nói chung và việc gia nhập WTO nói riêng đem lại mà cũng không chống được tham nhũng, lãng phí nguồn lực.

Năm là, để bảo đảm tiến trình hội nhập đạt hiệu quả, bên cạnh quyết tâm về chủ trươn, cần phải có một đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước và đội ngũ doanh nhân đủ mạnh. Đây cũng là một thách thức to lớn đối với Việt Nam do phần đông cán bộ của ta còn bị hạn chế về kinh nghiệm điều hành nền kinh tế mở, có sự tham gia của yếu tố nước ngoài. Nếu không có sự chuẩn bị phù hợp, thách thức này sẽ chuyển thành những khó khăn dài hạn rất khó khắc phục.

Sáu là, hội nhập kinh tế quốc tế dẫn đến sự hợp tác về an ninh và văn hóa. Đồng thời, việc mở cửa thị trường, mở rộng giao lưu trong điều kiện bùng nổ thông tin hiện nay, bên cạnh nhiều mặt tốt, những cái xấu cũng du nhập vào, đòi hỏi các cấp lãnh đạo, quản lý và mọi người dân phải nâng cao bản lĩnh chính trị, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc nhằm nâng cao sức đề kháng, chống lại sự tha hóa, biến chất, chống lại lối sống hưởng thụ, tự do tư sản…


Những thuận lợi và khó khăn của VNPT trong hội nhập kinh tế khu vực và thế giới

Thực hiện chủ chương mở cửa để phát triển mạnh hơn nền kinh tế quốc dân của Đảng, từ năm 1995 đến nay chúng ta đã tiến hành hàng loạt các hoạt động gia nhập các tổ chức khu vực và quốc tế, mở rộng các quan hệ song phương với nhiều nước. Song mở cửa, ngoài cơ hội chúng ta cũng còn gặp nhiều khó khăn và thách thức.

Đối với một nước đang phát triển ở vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá – hiện đại hoá như Việt Nam, hội nhập kinh tế có vai trò quan trọng hơn bao giờ hết. Sự giao lưu kinh tế quốc tế chẳng những đem lại những nguồn hàng hoá và dịch vụ phong phú của thế giới cho tiêu dùng trong nước với chất lượng cao, giá hạ, những nguồn bổ sung lớn về khoa học công nghệ, thiết bị máy móc, kinh nghiệm quản lý hiện đại, mà còn tạo nên động lực kích thích, khơi dậy các nguồn tiềm năng sẵn có của đất nước, tạo nên bầu không khí sôi động của nền kinh tế. Mở rộng thương mại và đầu tư đã và sẽ là cơ hội, là nguyên nhân quan trọng, là đòn bẩy thúc đẩy tiến trình cải cách và đổi mới nền kinh tế, làm sống động nền kinh tế đất nước, làm cho con người Việt Nam trở nên năng động, khẩn trương, sáng tạo trong sản xuất kinh doanh và trong sinh hoạt, từ  đó vị thế quốc tế, thế và lực của Việt Nam trong thương mại quốc tế sẽ nâng lên.

Tuy nhiên, sự hội nhập để phát triển là vấn đề không đơn giản, đã và đang đặt ra hàng loạt thách thức đối với Việt Nam. Vận hội và gánh nặng hội nhập kinh tế không chỉ đè nặng lên vai các nhà lãnh đạo cao cấp nhất, mà đặt trên vai từng ngành, từng doanh nghiệp. Với vai trò đặc biệt của một ngành phục vụ thông tin liên lạc, với những điểm hết sức đặc thù trong cung cấp các dịch vụ bưu chính, viễn thông, Tổng Công ty Bưu chính – Viễn thông Việt Nam cũng đang hoà vào dòng chảy của nền kinh tế đất nước trong xu thế hội nhập với nền kinh tế toàn cầu.

Cam kết thực hiện các chương trình hợp tác kinh tế trong ASEAN tháng 7/1995, chính thức là thành viên của APEC từ tháng 11/1998, ký kết hợp đồng thương mại Việt – Mỹ tháng 7/2000 và sẽ tham gia vào WTO, Việt Nam đã đặt nền móng quan trọng trong quá trình hội nhập quốc tế, phù hợp với xu thế toàn cầu hoá kinh tế. Tuy nhiên, đây mới chỉ là những bước đi đầu tiên trên con đường hội nhập. Mỗi doanh nghiệp để nâng cao sức mạnh cạnh tranh cần nhìn nhận rõ những thuận lợi cũng như những khó khăn trong quá trình hội nhập để tận dụng hoặc có biện pháp khắc phục cho phù hợp và linh hoạt. Đây là bước khởi đầu cần thiết trong quá trình chuẩn bị.

1.Những thuận lợi trong hội nhập quốc tế

Cũng như các doanh nghiệp khác, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực sẽ mang lại cho VNPT những lợi ích chủ yếu từ những lợi ích chung sau:

– Ngăn ngừa được tình trạng bị phân biệt đối xử, chèn ép trong thương mại quốc tế.

– Có cơ sở đấu tranh để được hưởng những đối xử ưu đãi dành cho cá nước chậm phát triển hoặc có nền kinh tế đang chuyển đổi;

– Có điều kiện mở rộng thị phần trên thị trường quốc tế, thu hút đầu tư chuyển giao công nghệ, qua đó có được tăng trưởng cao và lâu bền;

– Phát huy các lợi thế so sánh về nguồn nhân lực, vị thế địa lý, tài nguyên thiên nhiên;

– Nâng cao vị thế quốc tế, nhất là với các nước lớn, định hướng điều chỉnh có lợi cho đất nước;

– Thúc đẩy tiến trình cơ cấu lại tổ chức quản lý với cơ chế còn nhiều khía cạnh mang tính bao cấp, xin – cho sang một cơ chế dựa trên tiêu thức hiệu quả, năng động và linh hoạt.

2.Những khó khăn và thách thức

Trong bối cảnh phát triển hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước những khó khăn, thử thách trong quá trình hội nhập quốc tế và khu vực:

– Trình độ phát triển kinh tế thấp và năng lực cạnh tranh của nhiều ngành sản xuất và dịch vụ còn yếu. Vì vậy, phải giải quyết thoả đáng giữa hội nhập và bảo hộ về mặt thời gian và “mức độ tăng trưởng” của ngành hay doanh nghiệp một cách chủ động;

– Việt Nam đi sau nhiều nước trong khu vực; công tác chuẩn bị cho hội nhập còn rất hạn chế


Những thuận lợi và khó khăn thực tiễn của Việt Nam khi gia nhập WTO

1.Thuận lợi chung khi là thành viên WTO:

Thứ nhất, xuất khẩu sẽ được tăng cường thông qua việc giải quyết vấn đề tiếp cận thị trường hàng hóa và dịch vụ của các thành viên WTO; đồng thời thực hiện chiến lược kinh tế hướng mạnh về xuất khẩu, Việt Nam đã xây dựng được một loạt các ngành hàng có năng lực sản xuất lớn, có sức cạnh tranh mạnh và kim ngạch xuất khẩu cao trên thế giới. Khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ có khả năng mở rộng xuất khẩu những mặt hàng có tiềm năng nhờ thành quả của các cuộc đàm phán giảm thuế và hàng rào phi thuế quan, tăng cường tiếp cận thị trường cũng như các quy định của WTO về tự do hóa và thuận lợi hóa thương mại.

Thứ hai, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng cao. Việc cắt giảm thuế, dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan, mở cửa thị trường dịch vụ sẽ giúp môi trường đầu tư, kinh doanh ở Việt Nam ngày càng trở nên cạnh tranh hơn. Trước sức ép cạnh tranh, các doanh nghiệp trong nước không còn sự lựa chọn nào khác sẽ phải vươn lên để tự hoàn thiện mình, nâng cao tính hiệu quả và sức cạnh tranh cho nền kinh tế. Ngoài ra, giảm thuế và loại bỏ các hàng rào phi thuế quan cũng sẽ giúp các doanh nghiệp tiếp cận các yếu tố đầu vào với các chi phí hợp lý hơn, từ đó có thêm cơ hội để nâng cao sức cạnh tranh không những ở trong nước mà còn trên thị trường quốc tế.

Thứ ba, việc tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế và gia nhập WTO cũng sẽ tạo điều kiện để Việt Nam hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật theo hướng minh bạch hơn, ổn định hơn và dễ dự đoán; hoàn thiện cơ chế thị trường, cải cách hành chính và cải cách các doanh nghiệp trong nước, tiếp thu khoa học công nghệ, kỹ năng quản lý, góp phần đào tạo cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh năng động, sáng tạo,… tạo thế và lực cho Việt Nam trên trường quốc tế. Gia nhập WTO cũng tạo điều kiện để Việt Nam không bị đối xử như một nền kinh tế phi thị trường trong các vụ tranh chấp thương mại như hiện nay. Việt Nam sẽ có được vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu và có cơ hội tham gia trong việc xây dựng một khung khổ hợp tác thương mại thế giới công bằng và hợp lý hơn.

Thứ tư, Việt Nam có một số lợi thế về nguồn lực con người, về đội ngũ người lao động khéo tay, thông minh, chăm chỉ cần cù; có vị trí địa – chiến lược trên bản đồ kinh tế thế giới và khu vực; có nguồn tài nguyên đa dạng, phong phú với tiềm năng trữ lượng lớn, do vậy, xét trên tổng thể, nếu những lợi thế đó được phát huy tối đa, chúng ta sẽ vượt qua những khó khăn, thách thức, tạo ra năng lực cạnh tranh trong hoàn cảnh mới và giành được vị thế vững chắc trên thị trường quốc tế.

Thứ năm, nhờ có môi trường cạnh tranh, cơ sở và công cụ pháp lý lành mạnh, thông thoáng hơn mà các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể bảo vệ quyền lợi và hoạt động chính đáng của mình trong cạnh tranh với các doanh nghiệp khác, nhất là sử dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. Khi gia nhập WTO, tùy thuộc vào sự chủ động của mình mà các doanh nghiệp sẽ có nhiều cơ hội tự hoàn thiện, nâng cao năng lực cạnh tranh và mở rộng thị trường, vươn xa và vươn rộng hơn. Điều đó cũng đúng đối với các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư và kinh doanh ở nước ta. Đây là nhân tố vừa là cơ hội nhưng cũng lại vừa là thách thức.

2.Khó khăn chung khi là thành viên WTO:

Một là, năng lực cạnh tranh yếu kém của các doanh nghiệp, các ngành hàng hóa và dịch vụ. Nền kinh tế nước ta ở trình độ phát triển thấp, đang trong quá trình chuyển đổi; kinh tế thị trường mới còn đang ở giai đoạn phát triển sơ khai, các yếu tố cơ bản, đồng bộ của thị trường chưa phát triển đầy đủ… dẫn đến khả năng kinh doanh và sức cạnh tranh của các chủng loại hàng hóa dịch vụ của các doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế. Thị trường tiêu thụ hàng hóa của ta trên thế giới rất hạn hẹp, dễ bị thôn tính.

Trong bối cảnh thế giới tự do buôn bán, tự do đầu tư, Việt Nam ở vào thế yếu, rất dễ trở thành nơi tiêu thụ hàng hóa của nước ngoài. Muốn có thị trường toàn cầu thì Việt Nam phải mở cửa thị trường nội địa cho các nước. Đây là thách thức lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam, bởi các doanh nghiệp Việt Nam phần lớn là vừa và nhỏ, năng lực cạnh tranh kém.

Hai là, các vấn đề liên quan đến chính sách ổn định vĩ mô và hoàn thiện khuôn khổ luật pháp. Trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường, khi tham gia WTO, có thể một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của đất nước sẽ phụ thuộc mạnh vào các diễn biến trên trường quốc tế và khu vực. Vấn đề tỷ giá, lạm phát, cán cân thanh toán, ngân sách thâm hụt… sẽ có những diễn biến phức tạp, đòi hỏi có sự chỉ đạo chặt chẽ và uyển chuyển. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực để hoàn thiện khuôn khổ pháp lý liên quan đến kinh tế và thương mại, Việt Nam vẫn còn nhiều việc phải làm khi gia nhập WTO. Trước hết, phải liên tục hoàn thiện các quy định về cạnh tranh để bảo đảm một môi trường cạnh tranh lành mạnh và công bằng khi hội nhập nhằm thúc đẩy tính năng động và khả năng thích ứng nhanh – yếu tố quyết định sự thành bại của chuyển dịch cơ cấu kinh tế và bố trí nguồn lực. Đồng thời, những cam kết mở cửa thị trường của ta là cam kết theo lộ trình nên tiến trình hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sẽ còn tiếp tục diễn ra trong một thời gian dài

Ba là, tham gia WTO cũng cần lường trước những tác động xấu ngoài kinh tế, nhất là các vấn đề xã hội như thu nhập, lao động, việc làm, chênh lệch thu nhập giữa các tầng lớp dân cư và giữa các vùng miền, các vấn đề về môi trường, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc,v.v… Đặc biệt, vấn đề an sinh xã hội sẽ phức tạp do phải cắt giảm lao động trong nhiều ngành nghề, do doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả phải phá sản

Bốn là, thách thức về nguồn lực. Cần phải có một đội ngũ cán bộ đủ mạnh, ở mọi cấp từ trung ương đến địa phương, từ khu vực nhà nước đến các doanh nghiệp. Đây cũng là một thách thức to lớn đối với nước ta do phần đông cán bộ của ta còn bị hạn chế về kinh nghiệm điều hành một nền kinh tế mở, có sự tham gia của yếu tố nước ngoài. Nếu không có sự chuẩn bị từ bây giờ, thách thức sẽ được chuyển thành khó khăn dài hạn rất khó khắc phục.

Ngoài ra, để tận dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO và tham gia có hiệu quả vào các cuộc đàm phán trong tương lai của tổ chức này, chúng ta cần phải có một đội ngũ thông thạo quy định và luật lệ của WTO, có kinh nghiệm và kỹ năng đàm phán quốc tế

Tham khảo bài viết liên quan:

1900.0191