Chế định biện pháp ngăn chặn trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 27/11/2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016 là lần pháp điển hóa thứ ba những quy định về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự. Trong lần pháp điển hóa thứ ba(1) này, nhiều nguyên tắc tiến bộ, nhiều chế định mới trong BLTTHS là sự cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 nhằm bảo đảm quyền con người, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và cá nhân. Một trong những nội dung đổi mới đó được thể hiện rõ nét trong Chương VII: Những quy định về biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi đề cập đến nội dung biện pháp ngăn chặn được quy định tại Mục I Chương VII BLTTHS năm 2015, gồm có 17 điều luật (từ Điều 109 đến Điều 125) quy định về biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự. Biện pháp ngăn chặn bao gồm: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh.



Theo quy định của Điều 109 BLTTHS thì chỉ được áp dụng biện pháp ngăn chặn khi có những căn cứ sau:



a) Khi có căn cứ xác định một người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm hoặc đang thực hiện tội phạm. Trong trường hợp đang chuẩn bị thực hiện tội phạm thì tội phạm đó phải là tội phạm được quy định tại khoản 2 Điều 14 Bộ luật Hình sự (BLHS);



b) Khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử;



c) Khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ tiếp tục phạm tội;



d) Để bảo đảm thi hành án.



Người bị buộc tội là một khái niệm mới, được quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 4 BLTTHS, đó là người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử là có những hành vi như: Mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật, tiêu hủy, giả mạo chứng từ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án, đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của họ.



Một số điểm mới trong những quy định về biện pháp ngăn chặn so với BLTTHS năm 2003



a) Quy định mới về Điều luật



So với BLTTHS năm 2003 thì BLTTHS năm 2015 có quy định 3 điều luật mới, đó là: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 110), Bắt người đang bị truy nã (Điều 112) được quy định thành một điều luật riêng và Tạm hoãn xuất cảnh (Điều 124) và đổi tên từ biện pháp Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm quy định tại Điều 93 BLTTHS năm 2003 thành biện pháp Đặt tiền để bảo đảm (Điều 122).



– Về Điều 110 BLTTHS “Giữ người trong trường hợp khẩn cấp”. Thực chất biện pháp này đã được quy định tại Điều 81 BLTTHS năm 2003 “Bắt người trong trường hợp khẩn cấp” nhưng đã được bổ sung, hoàn thiện về nội dung cho phù hợp với thực tiễn giữ, bắt người trong trường hợp khẩn cấp. Theo quy định tại Điều 110 BLTTHS năm 2015 thì khi có những căn cứ được quy định tại khoản 1 Điều 110 BLTTHS, những người có thẩm quyền được quy định tại khoản 2 Điều 110 BLTTHS được giữ người. Việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp được thực hiện trước khi có lệnh bắt người bị giữ hoặc quyết định tạm giữ. Lệnh bắt người bị giữ hoặc quyết định tạm giữ phải được ban hành trong thời hạn 12 giờ kể từ khi giữ người hoặc kể từ khi Cơ quan điều tra (CQĐT) tiếp nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải được Viện kiểm sát phê chuẩn.



– Về Điều 122 BLTTHS biện pháp “Đặt tiền để bảo đảm”. Biện pháp này đã được quy định tại Điều 93 BLTTHS năm 2003, nhưng điều luật mới đã loại bỏ hình thức “đặt tài sản có giá trị” để bảo đảm. Việc loại bỏ này là phù hợp với thực tiễn nhằm bảo đảm tính khả thi của biện pháp “đặt tiền để bảo đảm” vì trên thực tế, việc đặt tài sản có giá trị để bảo đảm rất ít khi được thực hiện và khi thực hiện gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình đặt hoặc xử lý tài sản khi người đặt tài sản có vi phạm.



– Về biện pháp “Tạm hoãn xuất cảnh” quy định tại Điều 124 BLTTHS. Đây là một biện pháp ngăn chặn mới, lần đầu tiên được quy định trong BLTTHS, phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay khi nhiều trường hợp sau khi thực hiện hành vi phạm tội, trong quá trình xác minh, điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án người phạm tội đã lợi dụng việc xuất cảnh để trốn ra nước ngoài, gây cản trở cho việc xử lý vụ án và thi hành hình phạt. Biện pháp “tạm hoãn xuất cảnh” do người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 BLTTHS (gồm Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát các cấp; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp) và Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa có thể áp dụng. Quy định tạm hoãn xuất cảnh của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp phải được thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp trước khi thi hành. Thời hạn tạm hoãn xuất cảnh cũng được quy định chặt chẽ nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị áp dụng, đó là: Thời hạn tạm hoãn xuất cảnh không được quá thời hạn giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử theo quy định của BLTTHS. Thời hạn tạm hoãn xuất cảnh đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù.



b) Quy định mới về nội dung trong các biện pháp ngăn chặn



Tại khoản 2 Điều 109 BLTTHS quy định cụ thể các trường hợp bắt người, trong đó đáng lưu ý là trường hợp bắt người bị yêu cầu dẫn độ. Tại khoản 2 Điều 17 Hiến pháp năm 2013 và Điều 11 BLTTHS quy định “công dân Việt Nam không thể bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước khác”. Theo quy định trên thì công dân Việt Nam, dù phạm tội ở nước ngoài mà đã trở về sinh sống ở Việt Nam thì không bị trục xuất hoặc bắt, giao nộp cho nhà nước khác để điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Như vậy, trong mọi trường hợp, công dân Việt Nam phạm tội không bị dẫn độ ra nước ngoài để xử lý theo pháp luật hình sự của nước ngoài. Theo quy định tại Chương XXXV của BLTTHS thì người nước ngoài phạm tội ở nước ngoài mà trốn đến Việt Nam hoặc công dân Việt Nam phạm tội ở nước ngoài đã về Việt Nam sinh sống có thể bị bắt khi có yêu cầu dẫn độ của nước ngoài. Việc bắt người Việt Nam phạm tội bị yêu cầu dẫn độ chỉ nhằm mục đích giải quyết vấn đề phạm tội của họ theo quy định về hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự. Ví dụ, để phục vụ việc điều tra theo yêu cầu của nước ngoài. Thẩm quyền áp dụng biện pháp bắt người bị yêu cầu dẫn độ do Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh hoặc Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao quyết định.



– Về biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam theo quy định tại Điều 113 BLTTHS về cơ bản, nội dung không có nhiều thay đổi so với quy định Điều 80 BLTTHS năm 2003, trừ việc bỏ thẩm quyền áp dụng biện pháp này của Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao. Quy định mới này phù hợp với thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự khi có rất ít trường hợp các chủ thể này ra quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam, đồng thời phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp với nội dung thu hẹp chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giam. Biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam cũng được quy định chặt chẽ hơn, cụ thể, có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên 2 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp:



a) Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;



b) Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can;



c) Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn;



d) Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;



đ) Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.



Trong đó, hai trường hợp đầu (a, b) là những quy định mới so với BLTTHS năm 2003. Ngoài ra, khoản 3 của điều luật cũng cho phép áp dụng biện pháp bắt, tạm giam bị can, bị cáo về tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù đến 2 năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã. Nội dung này không được quy định trong BLTTHS năm 2003 nên trên thực tế áp dụng những năm qua gặp nhiều khó khăn và gây tranh cãi.



– Về biện pháp bảo lĩnh quy định tại Điều 121 BLTTHS. Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ vào mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh.



Ở biện pháp này cũng như ở các biện pháp “Đặt tiền để bảo đảm” hoặc “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, nhà làm luật đã quy định chặt chẽ, chi tiết hơn nhiều nội dung chưa có trong BLTTHS năm 2003, cụ thể, trong trường hợp bảo lĩnh, nếu người bảo lĩnh là cá nhân thì phải đủ 18 tuổi trở lên, có thu nhập ổn định và có điều kiện quản lý được người bảo lĩnh, phải là người thân của bị can, bị cáo và trong trường hợp này phải có ít nhất hai người; nội dung cam đoan của bị can, bị cáo trong biện pháp nêu trên cũng được quy định cụ thể, chi tiết. Một nội dung quan trọng đó là quy định bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan thì bị tạm giam. Thời hạn áp dụng các biện pháp nêu trên cũng được quy định đầy đủ hơn, đó là, thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn trên không được quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử. Thời hạn áp dụng đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù.



Đối với các biện pháp “Bảo lĩnh” và “Đặt tiền để bảo đảm” điều luật quy định “là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam”. Do vậy, chúng ta cần hiểu rằng các biện pháp trên được áp dụng khi bị can, bị cáo đang bị tạm giam, nếu có đủ các điều kiện quy định và xét thấy cần thiết thay đổi biện pháp tạm giam thì người có thẩm quyền quyết định áp dụng để thay thế biện pháp tạm giam.






(1) Lần pháp điển hóa thứ nhất là BLTTHS năm 1988, lần thứ hai là BLTTHS năm 2003.



Mai Đắc Biên* – Mai Ngọc Hải**



*Tiến sĩ, Trưởng khoa pháp luật hình sự và kiểm sát hình sự, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội.



**Phó Trưởng phòng, Cục Hậu cần Cảnh sát Bộ Công An

Nguồn: TCKS số 05/2016






1900.0191