KHÁI QUÁT VỀ ĐÀO TẠO LUẬT TẠI HOA KỲ

KHÁI QUÁT VỀ ĐÀO TẠO LUẬT TẠI HOA KỲ

KHÁI QUÁT VỀ ĐÀO TẠO LUẬT TẠI HOA KỲ
KHÁI QUÁT VỀ ĐÀO TẠO LUẬT TẠI HOA KỲ

GS.TS. PAMELA KATZ – Học giả chương trình Fulbright tại Việt Nam, 2012-2013

THS. LÊ NGUYỄN GIA THIỆN  – Giảng viên Khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế – Luật.

Ngày càng nhiều sinh viên Việt Nam tìm đến Hoa Kỳ như là một địa điểm giáo dục chất lượng cao và có uy tín lớn. Chất lượng, uy tín của nền giáo dục Hoa Kỳ được cả thế giới ngưỡng mộ vì nó cung cấp cho người học rất nhiều kiến thức, kỹ năng cả trong việc học lý thuyết lẫn thực hành. Giáo dục và đào tạo nghề luật, với tư cách là một ngành học đòi hỏi phải có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý thuyết và thực hành, luôn là một thế mạnh đặc trưng và có truyền thống lâu đời tại Hoa Kỳ. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ trình bày những vấn đề thiết yếu cũng như những thông tin cơ bản về đào tạo luật tại Hoa Kỳ, với hy vọng rằng những thông tin hữu ích này sẽ giúp cho các sinh viên và những đối tượng khác có quan tâm có những sự chuẩn bị cần thiết nếu họ muốn đến học tập, nghiên cứu và xa hơn nữa là thực hành nghề luật tại Hoa Kỳ, một nền pháp chế phát triển vào bậc nhất trên thế giới([1]).

1. Tổng quan

Phải nói rằng, có rất nhiều điểm khác biệt trong việc giáo dục pháp luật và thực hành nghề luật giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, bao gồm các điểm sau: cấu trúc, chương trình và tính thực tế. Sự khác biệt trong việc chuẩn bị vào học trường luật, chọn trường luật thích hợp và kinh nghiệm của các trường luật có thể gây ngạc nhiên cho nhiều người, nhất là những sinh viên từ Việt Nam và các nước khác tìm đến Hoa Kỳ để học luật. Việc tiếp cận, hiểu biết cặn kẽ về quá trình truyển chọn, đào tạo của các trường luật tại Hoa Kỳ sẽ tạo nhiều điều thuận cho các sinh viên, và đó là cách mà các sinh viên nước ngoài có thể hội nhập tốt nhất vào môi trường đào tạo luật mang tính đặc thù và chất lượng cao tại Hoa Kỳ.

Bằng luật ở Hoa Kỳ là bằng sau đại học, có tên là Juris Doctorate (J.D). Sinh viên phải mất ba năm học toàn thời gian để hoàn thành chương trình này sau khi mất bốn năm cho một chương trình cử nhân bất kỳ chuyên ngành nào trước đó([2]). Như vậy, muốn lấy một bằng luật tại Hoa Kỳ thì người học phải mất ít nhất là bảy năm([3]). Cần lưu ý rằng, không có sự phân ngành tại các trường luật Hoa Kỳ([4]), tất cả các sinh viên tốt nghiệp đều được nhận bằng J.D. Tuy nhiên, có một số trường nổi tiếng vì chuyên sâu vào một mảng luật cụ thể do có uy tín về nhân sự giảng dạy, chương trình đào tạo, địa điểm học tập, nghiên cứu hay các chương trình thực hành luật.

 

Nhiều trường luật ngày nay đào tạo chương trình Thạc sỹ luật (LL.M) cho các ứng viên đã có bằng luật nhưng muốn nghiên cứu chuyên sâu về một lĩnh vực pháp lý nào đó. Thông thường, các sinh viên nước ngoài lấy bằng cử nhân luật tại nước của họ và muốn học tiếp lên LL.M tại Hoa Kỳ. Điều này có lợi hơn cho sinh viên, đặc biệt là sinh viên nước ngoài vì họ sẽ chỉ phải học một năm (hoặc tối đa là hai năm). Chương trình LL.M tại Hoa Kỳ rất đa dạng, bao gồm nhiều lĩnh vực từ luật quốc tế, luật thương mại cho đến luật thuế, luật sở hữu trí tuệ và nhiều lĩnh vực khác.

Một số trường luật là những trường độc lập, trong khi có trường lại nằm trong các đại học trường khác lớn hơn([5]). Một số trường luật là trường dân lập, nghĩa là họ sẽ nhận được nguồn tài trợ từ các tổ chức, cá nhân, bao gồm cả học phí, tiền cơ sở vật chất và các nguồn tài trợ khác([6]). Các trường khác là trường công lập, họ được tài trợ bởi chính phủ, cụ thể là chính phủ bang nơi mà trường đó tọa lạc([7]). Vai trò của Liên đoàn Luật sư Hoa Kỳ (American Bar Association – ABA) cũng rất quan trọng, dù ABA không phải là một cơ quan nhà nước, nhưng chịu trách nhiệm giám sát các trường luật về đảm bảo chương trình học, nhân lực giảng dạy, trang thiết bị, các nguồn lực và đầu ra, đảm bảo các trường này sẽ theo các tiêu chuẩn nhất định([8]).

2. Chuẩn bị vào trường luật (chương trình J.D)

Một điều kiện tiên quyết để nộp đơn và trúng tuyển vào học chương trình J.D tại Hoa Kỳ là bằng cử nhân trong bất cứ chuyên ngành nào. Ở Hoa Kỳ, như đã trình bày, chương trình luật là chương trình sau đại học, nên không có chương trình luật bậc đại học. Các trường luật tìm kiếm những sinh viên có năng lực, làm việc chăm chỉ, có nền tảng tốt và các kỹ năng phù hợp với nghề luật. Nhiều sinh viên, thông qua sự nỗ lực của mình, có thể học tập và gặt hái thành công trong quá trình theo học tại các trường luật. Các trường luật luôn quan tâm đến sự thành công của sinh viên, không chỉ vì sinh viên là sản phẩm của quá trình đào tạo, mà còn vì các trường luật luôn được xếp hạng bởi các hệ thống đánh giá tư nhân dựa trên tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp, tỷ lệ sinh viên vượt qua kỳ thi của đoàn luật sư, và khả năng làm việc trong tương lai của sinh viên([9]).

Sinh viên có nguyện vọng muốn vào học tại các trường luật sau khi tốt nghiệp đại học được khuyến khích đăng ký và tham gia vào các lớp học nhằm phát triển kỹ năng như: phân tích và giải quyết vấn đề, đọc hiểu có chọn lọc, viết luận, giao tiếp, lắng nghe, và nghiên cứu khoa học. Ủy ban điều hành của ABA nhận định rằng các kỹ năng này sẽ giúp sinh viên chuẩn bị tốt cho không những bài thi được chuẩn hóa để vào các trường luật, gọi là bài dự thi vào trường luật (Law School Admission Test – LSAT) mà còn cho cả quá trình học tập tại trường luật([10]).

2.1 Bài dự thi vào trường luật (LSAT)

LSAT là bài kiểm tra đầu vào cho tất cả các trường luật được ABA chấp thuận. Nó được tổ chức bốn lần một năm trên toàn thế giới bởi Hội đồng khảo thí trường luật (Law School Admission Council – LSAC)([11]). Các sinh viên chưa tốt nghiệp trong chương trình học toàn thời gian nếu muốn vào học thẳng các trường luật thì họ có thể đăng ký thi LSAT vào tháng 6 năm học cuối cùng thời cử nhân trong các trường đại học (college)([12]). Bài thi LSAT là bài thi kỹ năng, thật đáng ngạc nhiên khi biết rằng sinh viên không cần biết bất cứ kỹ năng nào về luật vẫn có thể đạt điểm tuyệt đối.

Cấu trúc bài thi LSAT bao gồm ba dạng câu hỏi: đọc hiểu, lập luận, phân tích logicvà viết luận([13]). Thông thường, sẽ có một “phần kiểm tra thêm”, dùng để định hướng câu hỏi cho các bài LSAT tương lai. “Phần kiểm tra thêm” này không được tính điểm, và sinh viên tham gia dự thi sẽ không được báo trước phần nào là “phần kiểm tra thêm” để đảm bảo sự định hướng một cách thống nhất. Bài thi LSAT diễn ra trong gần nữa ngày, với 5 phần, mỗi phần 35 phút và một phần nghỉ giữa giờ. Điểm đánh giá LSAT là từ 120 đến 180, với 180 là điểm tối đa, điểm trung bình là 150. Tất cả các trường luật uy tín đều đăng tải điểm LSAT cần phải đạt được để sinh viên có thể được nhận vào học.

Bài thi LSAT rất quan trọng cho việc xét tuyển vào các trường luật. Đây quả là một bài kiểm tra lạ lùng vì hầu hết các sinh viên chưa bao giờ phải trải qua trong suốt 16 năm học trước đó (bao gồm 12 năm phổ thông và 4 năm đại học). Bài thi LSAT đòi hỏi sinh viên phải có sự tập trung cao độ cũng như sự bền bỉ, và sự chuẩn bị kỹ lưỡng cũng rất quan trọng cho sự thành công của các sinh viên. Có rất nhiều cách để chuẩn bị cho kỳ thi này, hầu hết đòi hỏi sự chuẩn bị nhiều tháng trời. Các khóa học, cả trực tiếp và trên internet, đều rất phổ biến([14]). Các khóa học phụ đạo cũng như những chương trình dài ngày vào mùa hè cũng trợ giúp tốt cho sinh viên. Thật là không ai bị sốc khi nghe rằng việc chuẩn bị thi cử cũng góp phần làm tăng giá trị của LSAT, và LSAT được xem là một trong các bài kiểm tra quan trọng bậc nhất tại Hoa Kỳ. Những sinh viên không có thời gian, điều kiện kinh tế để tham gia vào những lớp học này có thể tự trau dồi, nghiên cứu thông qua các bài test mẫu trên website của LSAC và ở những nơi khác, đồng thời họ cũng có thể tự học thông qua các hướng dẫn trong nhà sách và thư viện.

2.2 Chọn trường luật thích hợp

Cho dù sinh viên đang chuẩn bị đến Hoa Kỳ học chương trình J.D hay LL.M, nguồn tài liệu miễn phí hữu hiệu nhất mà sinh viên có thể tham khảo để chọn các trường luật ở Hoa Kỳ là website của LSAC. Phần Official Guide to ABA-Approved Law Shools([15]) cho chương trình J.D và phần LL.M Program Guide([16]) cho chương trình LL.M rất thuận tiện, có thể truy cập dễ dàng và hoàn toàn miễn phí. Sinh viên có thể tìm các thông tin theo chương trình học, vị trí địa lý, cơ hội thực tập, tiêu chuẩn nộp đơn và các vấn đề khác.

Đối với những sinh viên muốn vào học chương trình LL.M tại các trường luật Hoa Kỳ, điều vô cùng quan trọng là sinh viên phải xác định rằng liệu là trường luật có chấp nhận bằng cử nhân trước đó của sinh viên như là một điều kiện tiên quyết để nộp đơn hay không. Liệu là bằng cử nhân mà sinh viên có là bằng đại học hay sau đại học của nước ngoài, trường luật Hoa Kỳ sẽ xác định liệu là nó có đáp ứng được các chuẩn tiêu chuẩn hay không. Mỗi trường học đều thiết lập tiêu chuẩn cho chương trình LL.M của họ, vì vậy khi chọn trường luật, sinh viên nước ngoài cần tham vấn với nhà trường thông qua website, danh mục và bản tin.

Hơn nữa, nếu sinh viên nước ngoài muốn sử dụng bằng LL.M nhằm tham gia dự kỳ thi để vào thực tập tại đoàn luật sư ở Hoa Kỳ, sinh viên phải thực hiện thêm một bước khi chọn trường luật. Đó là, mỗi bang tại Hoa Kỳ đều thiết lập những quy tắc riêng cho phép sinh viên vào thực tập tại các đoàn luật sư, và phải nói thẳng rằng, sinh viên không thể trông chờ nhà trường sẽ thông báo những quy tắc này. Vì vậy, khi xem xét vào học các trường luật, sinh viên nên tham vấn các quy tắc của tiểu bang nơi mà trường luật trú đóng để xác nhận liệu là bằng LL.M có đưa đến cho họ cơ hội vào thực tập tại các đoàn luật sư hay không. May mắn là, thông tin này cũng có sẵn trên mạng internet([17]).

2.3 Kinh nghiệm của trường luật

Đối với những sinh viên đã trúng tuyển vào chương trình J.D toàn thời gian, năm đầu tiên của họ hầu hết là giống nhau giữa các trường luật, dù trên thực tế có vài điểm khác biệt nhỏ. Nhìn chung, có một loạt các khóa học mang tính bắt buộc, bao gồm luật hợp đồng (contract law), luật bất động sản (real property law), luật bồi thường ngoài hợp đồng (tort law), luật tố tụng dân sự (civil procedure law), luật hiến pháp (constitutional law) và nghiên cứu luật và viết học thuật (legal research and writing), vì đây là các môn bắt buộc nên sinh viên thường không có cơ hội để lựa chọn. Bên cạnh đó, sinh viên có nhiều cơ hội để gia nhập các câu lạc bộ hay các tổ chức của sinh viên.

Thử thách lớn nhất của hầu hết các sinh viên là phương pháp học tập mới và việc yêu cầu phải đọc bài ở nhà rất nhiều. Hoa Kỳ là sự kết hợp giữa thông luật và dân luật, vì thế có rất nhiều luật được diễn dịch ra bởi các toà án. Do đó, kỹ năng đọc và phân tích các vụ án là điều kiện tiên quyết của việc học tập, nghiên cứu tại các trường luật, và năm đầu tiên là sự khởi đầu cho quá trình này. Bên cạnh đó, các lớp học thường áp dụng sử dụng phương pháp khích biện (Socratic method). Trong giờ giảng, giáo sư sẽ không nhấn mạnh và quá chú trọng vào việc cung cấp thông tin cho sinh viên, ngược lại, họ đặt các câu hỏi để sinh viên đọc, trả lời và do đó nắm vấn đề vững hơn. Đây là vấn đề rất mới cho hầu hết các sinh viên và sinh viên thường mất nhiều thời gian để làm quen với nó.

Điểm học năm nhất của sinh viên thường trao cho họ cơ hội được làm việc cho tạp chí luật của trường. Tất cả các trường luật đều có nhiều sinh viên điều hành và biên tập tạp chí luật([18]). Các sinh viên đứng đầu lớp tại các trường luật sẽ tham gia điều hành và viết bài cho tạp chí. Những sinh viên mà điểm không đáp ứng được việc vào làm cho tạp chí, sẽ có cơ hội viết bài cho tạp chí vào năm cuối năm nhất, điều này được thực hiện thông qua một cuộc thi viết cạnh tranh rất gắt gao.

Trong năm thứ hai và thứ ba của chương trình J.D, sinh viên có nhiều cơ hội để lựa chọn môn học trong chương trình giảng dạy. Nhiều sinh viên sử dụng cơ hội này để nghiên cứu chuyên sâu về mảng luật mà mình theo đuổi, trong khi nhiều SV khác thích nghiên cứu nhiều mảng luật khác nhau. Như đã đề cập từ phần đầu, không có chuyên ngành trong các trường luật: bằng J.D là bằng J.D chung cho tất cả. Vì thế, không cần phải chuyên sâu khi ở trường luật, hầu hết các sinh viên khi bước vào năm ba đã xây dựng cho mình kiến thức sâu rộng cho một hay hai lĩnh vực mà mình quan tâm. Năm thứ hai và năm thứ ba cũng là khoảng thời gian mà nhiều sinh viên dành để tham gia vào hoạt động thực hành luật (law clinics). Những hoạt động này thường được chú trọng vào một lĩnh vực luật hay chính sách cụ thể. Có nhiều khóa học có tín chỉ cung cấp cho sinh viên cơ hội làm việc với các hoạt động thực hành luật dưới sự giám sát của các giám sát viên nhiều kinh nghiệm, điển hình là giám đốc trung tâm thực hành luật và các cộng sự. Hầu hết mỗi trường luật đều có ít nhất một chương trình thực hành luật, một số vấn đề mà các văn phòng thực hành luật chú trọng đến như bạo lực gia đình, hỗ trợ người nghèo, lợi ích cộng đồng và pháp luật hình sự.

Thực tập để lấy kinh nghiệm đóng vai trò rất quan trọng cho sinh viên trong suốt năm hai và năm ba tại các trường luật, đặc biệt là mùa hè khi năm hai kết thúc, sinh viên sẽ được tham gia vào “Summer associateships” tại các hãng luật. Những kinh nghiệm làm việc và hoạt động thực tiễn này sẽ cho sinh viên thấy luật được áp dụng vào thực tế như thế vào, và thông qua các hoạt động này, các công ty luật cũng tìm ra những luật sư triển vọng có thể làm việc cho mình trong tương lai.

Chương trình LL.M có nhiều điểm khác biệt so với các chương trình J.D. Trong khi hầu hết chương trình J.D là toàn thời gian, nhiều chương trình LL.M là bán thời gian, thích hợp với các sinh viên đang đi làm, hoặc có những công việc hay hoạt động khác. Chương trình học LL.M rất khác biệt giữa các trường. Đối với sinh viên nước ngoài, những khó khăn mà họ gặp phải, không chỉ là việc đọc nhiều, nghe, và viết bằng ngôn ngữ thứ hai, mà còn là sự khác biệt về cách thức giảng dạy và cách đánh giá của nền giáo dục pháp luật Hoa Kỳ. Thêm vào đó, giáo sư luật có thể yêu cầu sinh viên phải nắm vững các kỹ năng như nghiên cứu luật và viết học thuật, hiểu biết về hệ thống thông luật và án lệ. Một số chương trình LL.M chia sẽ những khó khăn này với sinh viên nước ngoài và cung cấp cho họ những sự hỗ trợ cần thiết[19].

3. Chương trình PhD, S.J.D (hay J.S.D)

Bằng luật ở Hoa Kỳ là bằng tiến sỹ: juris doctorate. Vì thế, trong lĩnh vực luật học, bằng PhD, bằng S.J. D (còn gọi là J.S.D) ít được chú ý đến vì các bằng này cũng là bằng tiến sỹ, và do đó cũng không cao hơn bằng J.D. Thêm nữa, để Hoa Kỳ đào tạo luật sư để họ có thể làm việc thực tiễn hoặc làm công tác thuật, tấm bằng cao hơn J.D (như LL.M hay S.J.D (J.S.D) đã đề cập) thường không được khuyến khích và cũng không cần thiết. Mặc dù trong một vài lĩnh vực chuyên biệt, như luật y tế quốc tế, các bằng này có thể là một sự lựa chọn phù hợp.

Tuy nhiên, đối với sinh viên đạt bằng cử nhân tại nước ngoài, bằng LL.M có thể là một sự lựa chọn hợp lý và sinh viên có thể thực hành nghề luật tại Hoa Kỳ với bằng này. Đối với những người muốn giảng dạy hoặc đã giảng dạy ở nước ngoài, và những người mới tốt nghiệp LL.M, “bằng tiến sỹ khoa học pháp lý” Doctorate of juridical sciences (S.J.D.) có thể là sự lựa chọn phù hợp. Chương trình S.J.D thường được mở tại một vài trường, chứ không phải tất cả các trường luật tại Hoa Kỳ. Nó thường đòi hỏi hai năm học tập toàn thời gian, nghiên cứu và viết bài dưới sự giám sát của một thành viên thuộc hội đồng của trường luật. Trong một số trường hợp, chương trình S.J.D cũng có thể học theo dạng tín chỉ. Sau khi hoàn tất chương trình hai năm, sinh viên sẽ làm luận án, nếu muốn tốt nghiệp, sinh viên phải gặp người hướng dẫn và dĩ nhiên phải bảo vệ thành công trước hội đồng của trường.

Các trường luật tự lên chương trình và yêu cầu mà sinh viên phải đạt được cho chương trình LL.M và S.J.D của họ, bao gồm cả việc xét đơn, thiết lập các tiêu chuẩn tuyển sinh, mặc dù các tổ chức uy tín như ABA sẽ thường xuyên giám sát các chương trình này.

Kết luận

Việc chuẩn bị để trở thành luật sư và theo học luật tại Hoa Kỳ và Việt Nam có phần khác nhau, căn cứ vào những sự nỗ lực, cố gắng để phục vụ cho nhu cầu của chính hệ thống tư pháp, nền pháp chế và sự phát triển kinh tế mỗi nước. Trong thế giới toàn cầu hóa ngày nay, việc học luật mang đến nhiều lợi ích, phục vụ cho các cá nhân và xã hội, tăng cường hợp tác quốc tế, bất kể là sinh viên theo học hệ thống pháp luật của Việt Nam, Hoa Kỳ hay cả hai. Thực tế là giáo dục pháp luật bị ràng buộc bởi văn hóa nhưng nó ngày càng trở nên năng động hơn để đáp ứng nhu cầu thay đổi của thế giới. Các trường luật ở Hoa Kỳ luôn chào đón sinh viên nước ngoài cũng như sinh viên Hoa Kỳ đến học tập, nghiên cứu ở tất cả các cấp độ để ngày càng thắt chặt quan hệ hợp tác, hiểu biết lẫn nhau nhằm tiến tới sự phát triển.


[1] Chúng tôi chân thành cảm ơn các vị lãnh đạo Trường Đại học Kinh tế – Luật và Khoa Luật đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để chúng tôi có thể làm việc, nghiên cứu và hoàn thành nhiệm vụ của mình. Chúng tôi xin kính tặng bài viết này cho các vị lãnh đạo vô cùng tuyệt với ấy. Chúng tôi cũng xin gửi lời cảm ơn và mến tặng bài viết này cho các sinh viên ngành luật đã theo học các lớp chuyên đề nằm trong Chuỗi Hội thảo chuyên sâu về pháp luật Hoa Kỳ tại Trường Đại học Kinh tế – Luật do chúng tôi giảng dạy trong thời gian qua.

[2] Hiện nay, ở Hoa Kỳ, có một xu hướng là giảm tthời lượng học của sinh viên luật xuống còn hai năm, và năm thứ ba sinh viên sẽ đi thực tập tại một số đơn vị. Xem: Bài phát biểu của Chánh án tòa Phúc thẩm bang New York Jonathan Lippman: Đề xuất cho sinh viên ngành luật tham gia Đoàn luật sư New York sau hai năm học tập, Tạp chí ABA Law Journal, 23/1/2013 http://www.abajournal.com/news/article/proposal_to_let_law_students_take_ny_bar_after_

2_years_is_worth_study_says_/ (truy cập ngày 9/5/2013).

[3] Cộng dồn 4 năm học trong chương trình cử nhân, và 3 năm học chương trình J.D.

[4] Điều này cũng khác với nhiều nước, trong đó có Việt Nam. Ở Việt Nam, sinh viên luật được phân ngành ngay trong chương trình cử nhân, và các ngành phổ biến là Luật thương mại, Luật dân sự, Luật hình sự, Luật hành chính và Luật quốc tế. Tuy nhiên, một số trường, như Trường Đại học Kinh tế – Luật, việc phân ngành lại chuyên sâu hơn nữa, khi có các ngành như Luật tài chính ngân hàng, Luật thương mại quốc tế ngay trong chương trình cử nhân luật của nhà trường.

[5] Ví dụ, Trường Luật Albany (Albany Law School) là một trường độc lập, trong khi Trường Luật Đại học New York (New York University School of Law) lại nằm trong Đại học New York (New York University).

[6] Ví dụ, Trường Luật Đại học Northeastern là trường tư, vì nó thuộc Đại học Northeastern cũng là một trường tư.

[7] Ví dụ, Trường Luật Buffalo (Buffalo Law School) là một trường nhận được ngân sách công từ Bang New York. Có rất nhiều khoản cho vay và tài trợ giá trị lớn từ cả chính quyền liên bang và tiểu bang để giúp sinh viên trang trải việc học. Các khoản tài trợ lấy từ ngân sách, và có thể dùng để tài trợ học phí cho sinh viên cả trường công lẫn trường tư.

[8] Xem: http://www.americanbar.org/groups/legal_education/resources/accreditation.html (truy cập ngày 7/5/2013).

[9] Xem: http://grad-schools.usnews.rankingsandreviews.com/best-graduate-schools/top-law-schools/law-rankings (truy cập ngày 9/5/2013).

[10] Xem: http://www.americanbar.org/groups/legal_education.html (truy cập ngày 1/5/2013).

[11] Xem: http://www.lsac.org/jd/lsat (truy cập lần cuối ngày 1/5/2013).

[12] Thuật ngữ “college”, ở Hoa Kỳ, thường được sử dụng để chỉ cả trường cao đẳng lẫn trường đại học. Tuy nhiên, ở Việt Nam thuật ngữ “college” chỉ được dùng để chỉ các trường cao đẳng, còn các trường đại học lại được dùng thuật ngữ “university”.

[13] Phần viết luận dù không được tính điểm nhưng nó dùng để phân loại thí sinh.

[14] Stanley Kaplan và Princeton Review là hai trong số nhiều nhà cung cấp bài kiểm tra có uy tín, với mạng lưới rộng khắp thế giới và họ cũng cung cấp những khóa học dự bị vào các trường luật trực tuyến trên internet.

[15]https://officialguide.lsac.org/release/OfficialGuide_Default.aspx (truy cập ngày 9/5/2013)

[16]http://www.lsac.org/llm/choose/llm-program-guide.asp (truy cập ngày 9/5/2013)

[17]http://www.ncbex.org/ (truy cập ngày 9/5/2013). Sinh viên có thể tham vấn nhà trường về tỷ lệ sinh viên nước ngoài có thể được vào thực tập tại đoàn luật sư sau khi kết thúc chương trình LL.M.

[18] Những tạp chí luật này là nơi để đăng tải các bài báo khoa học chuyên ngành. Các học giả gửi những bài viết của họ cho tạp chí, sinh viên sẽ tuyển chọn và biên tập lại các bài viết này trước khi đăng tải.

[19] Các thông tin này hầu hết có trên website của nhà trường và sinh viên có thể dễ dàng truy cập.

SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP, SỐ 23, THÁNG 12/2013, TR 57-62

1900.0191