Phân tích những mối quan hệ pháp lý giữa các bên trong quan hệ thanh toán thông qua thẻ ngân hàng và tìm hiểu những vấn đề tranh chấp phát sinh trong quá trình sử dụng, thanh toán bằng thẻ

Phân tích những mối quan hệ pháp lý giữa các bên trong quan hệ thanh toán thông qua thẻ ngân hàng và tìm hiểu những vấn đề tranh chấp phát sinh trong quá trình sử dụng, thanh toán bằng thẻ


Phân tích những mối quan hệ pháp lý giữa các bên trong quan hệ thanh toán thông qua thẻ ngân hàng và tìm hiểu những vấn đề tranh chấp phát sinh trong quá trình sử dụng, thanh toán bằng thẻ
Phân tích những mối quan hệ pháp lý giữa các bên trong quan hệ thanh toán thông qua thẻ ngân hàng và tìm hiểu những vấn đề tranh chấp phát sinh trong quá trình sử dụng, thanh toán bằng thẻ

LỜI NÓI ĐẦU

Thẻ ngân hàng là phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, ra đời từ phương thức mua bán chịu hàng hoá bán lẻ và phát triển gắn liền với sự ứng dụng công nghệ tin học trong lĩnh vực ngân hàng. Thẻ ngân hàng là công cụ thanh toán do ngân hàng phát hành thẻ cấp cho khách hàng sử dụng thanh toán hàng hoá dịch vụ hoặc rút tiền mặt trong phạm vi số dư tiền gửi của mình hoặc hạn mức tín dụng được cấp. Hiện nay việc sử dụng thẻ khá phổ biến, nó cũng cho thấy được những ưu điểm tuy nhiên cũng phát sinh một số tranh chấp. Chúng em xin làm rõ vấn đề này bằng việc phân tích về:

“Phân tích những mối quan hệ pháp lý giữa các bên trong quan hệ thanh toán thông qua thẻ ngân hàng và tìm hiểu những vấn đề tranh chấp phát sinh trong quá trình sử dụng, thanh toán bằng thẻ”

B.NỘI DUNG

I.Những mối quan hệ pháp lý giữa các bên trong quan hệ thanh toán thông qua thẻ ngân hàng

Theo khoản 1 điều 2 Quy chế phát hành, thanh toán, sử dụng và cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ ngân hàng ban hành kèm theo Quyết định số 20/2007/QĐ-NHNN thì “Thẻ ngân hàng là phương tiện do tổ chức phát hành thẻ phát hành để thực hiện giao dịch thẻ theo các điều kiện và điều khoản được các bên thỏa thuận”.

Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ sử dụng thẻ, thẻ bao gồm: thẻ nội địa và thẻ quốc tế.

– Thẻ nội địa là thẻ được tổ chức phát hành thẻ tại Việt Nam phát hành dẻ giao dịch trong lãnh thổ nước CHXHCNVN.

– Thẻ quốc tế là thẻ được tổ chức phát hành thẻ tại Việt Nam phát hành để giao dịch trong và ngoài lãnh thổ nước CHXHCN Việt Nam hoặc là thẻ được tổ chức nước ngoài phát hành và giao dịch trong lãnh thổ nước CHXHCNVN.

Theo nguổn tài chính đảm bảo cho việc sử dụng thẻ, thẻ bao gồm: thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng, thẻ trả trước.

– Thẻ ghi nợ là thẻ cho phép chủ thể thực hiện giao dịch thẻ trong phạm vi số tiền trên tài khoản tiền gửi thanh toán của chủ thể mở tại một tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán được phép nhận tiền gửi không kì hạn.

– Thẻ trả trước là thẻ cho phép chủ thể thực hiện giao dịch tget trong phạm vi gí trị tiền được nạp vào thẻ tương ứng với số tiền mà chủ thể đã trả trước cho tổ chức phát hành thẻ.

– Thẻ tín dụng là thẻ cho phép chủ thể thực hiện giao dịch thẻ trong phạm vi hạn mức tín dụng đã được cấp theo thỏa thuận với tổ chức phát hành thẻ.

Trong hoạt động kinh doanh thẻ ngân hành ta có thể nhận thấy được m

1. Mối quan hệ giữa ngân hàng phát hành thẻ và chủ thẻ

Chủ thẻ là tổ chức, cá nhân được tổ chức phát hành thẻ cấp thẻ để sử dụng. Chủ thẻ bao gồm chủ thẻ chính và chủ thẻ phụ. Chủ thẻ chính là cá nhân hoặc tổ chức đứng tên thỏa thuận về việc sử dụng thẻ với tổ chức phát hành thẻ và có nghĩa vụ thực hiện thỏa thuận đó. Chủ thẻ phụ là cá nhân được chủ thẻ chính cho phép sử dụng thẻ theo thỏa thuận về việc sử dụng thẻ giữa chủ thẻ chính và tổ chức phát hành thẻ. Chủ thẻ phụ chịu trách nhiệm về việc sử dụng thẻ với chủ thẻ chính. Tổ chức phát hành thẻ là ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tín dụng hợp tác, tổ chức không phải là tổ chức tín dụng được Ngân hàng nhà nước cho phép thực hiện nghiệp vụ phát hành thẻ, cấp thẻ cho các chủ thể là cá nhân sử dụng, chịu trách nhiệm thanh toán và cung cấp các dịch vụ liên quan đến việc sử dụng thẻ.

Để phát sinh mối quan hệ giữa chủ thẻ và tổ chức phát hành thẻ thì cả chủ thẻ và tổ chức phát hành thẻ đều phải đáp ứng được những yêu cầu nhất định mà pháp luật quy định:       – Điều kiện đối với tổ chức phát hành thẻ được quy định tại Điều 9 Quyết định số 20/2007/QĐ-NHNN ngày 15/5/2007 ban hành quy chế phát hành, thanh toán, sử dụng và cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ ngân hàng.

– Điều kiện đối với chủ thẻ được quy định tại Điều 11 Quyết định số 20/2007/QĐ-NHNN ngày 15/5/2007 ban hành quy chế phát hành, thanh toán, sử dụng và cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ ngân hàng.

Kể từ khi chủ thẻ và tổ chức đáp ứng được các điều kiện này, sau khi lập hồ sơ xin phát hành thẻ và kí hợp đồng sử dụng thẻ thì giữa hai bên phát sinh các quyền và nghĩa vụ trong mối quan hệ pháp lý với nhau. Căn cứ vào quy định của quy chế về quyền và nghĩa vụ của chủ thẻ và TCPHT ta thấy, TCPHT và chủ thẻ cùng mang lại lợi ích cho nhau. Nếu TCPHT mang đến cho chủ thẻ sự thuận tiện khi thanh toán bằng thẻ thông qua ngân hàng mà không cần phải trực tiếp sử dụng tiền mặt tránh rủi ro cao, thì chủ thẻ mang lại lợi nhuận cho TCPHT bằng chi phí phát hành thẻ, hơn thế nữa, việc chủ thẻ mở tài khoản tại ngân hàng mà không lấy lãi suất, thì ngân hàng đó có thể sử dụng khoản tiền đó để đem cho các khách hàng khác hoặc tổ chức tín dụng khác vay.

Quyền của chủ thẻ được quy định tại Điều 21 Quyết định số 20/2007/QĐ-NHNN ngày 15/5/2007 ban hành quy chế phát hành, thanh toán, sử dụng và cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ ngân hàng. Trong đó, chủ thẻ có một số quyền như sau đối với tổ chức phát hành thẻ.

Thứ nhất, chủ thẻ có quyền thỏa thuận với TCPHT về hạn mức thấu chi, hạn mức tín dụng và các thỏa thuận khác không trái pháp luật hiện hành. Hạn mức thấu chi được hiểu là một giới hạn tiền nhất định mà tổ chức phát hành thẻ cho phép chủ thẻ rút dù tài khoản chủ thẻ không còn tiền. Số tiền chi vượt quá so với số tiền trong tài khoản sẽ được tính như số nợ của chủ thẻ với tổ chức phát hành thẻ và phát sinh lãi. Hạn mức tín dụng được định nghĩa là mức dư nợ vay tối đa được duy trì trong một thời gian nhất định mà ngân hàng và khách hàng đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Hạn mức thấu chi và hạn mức tín dụng sẽ được chủ thẻ và tổ chức phát hành thẻ thỏa thuận trong hợp đồng sử dụng thẻ.

Thứ hai là được tổ chức phát hành thẻ cung cấp thông tin định kỳ hoặc được cung cấp thông tin đột xuất về giao dịch thẻ và số dư, hạn mức liên quan đến việc sử dụng thẻ theo quy định của tổ chức phát hành thẻ. Điều này nhằm đảm bảo cho chủ thẻ kiểm soát chi tiêu cũng như số tiền trong tài khoản của mình.

Thứ ba là được tổ chức phát hành thẻ hoàn trả lại số tiền được nạp trên thẻ trả trước chưa sử dụng hết trong trường hợp thẻ bị hỏng do lỗi kỹ thuật hoặc số dư của thẻ trả trước định danh chưa sử dụng và chủ thẻ yêu cầu hoàn trả lại tiền.

Thứ tư là khiếu nại hoặc yêu cầu tổ chức phát hành thẻ tra soát trong các trường hợp: sai sót hoặc nghi ngờ có sai sót về các giao dịch thẻ do TCPHT thông báo cho chủ thẻ theo thỏa thuận; nếu chủ thẻ khiếu nại, yêu cầu tra soát đối với TCPHT thì TCPHT phải có trách nhiệm thông báo lại cho TCTTT; ĐVCNT nâng giá hàng hóa, dịch vụ hoặc phân biệt giá khi nhận thanh toán bằng thẻ so với trường hợp thanh toán bằng tiền mặt; ĐVCNT yêu cầu chủ thẻ trả thêm phụ phí cho các giao dịch thẻ thực hiện để mua hàng hóa, dịch vụ tại ĐVCNT và các vi phạm hợp đồng sử dụng thẻ khác của TCPHT. Khiếu nại, yêu cầu tra soát phải được gửi bằng văn bản hoặc bằng thông điệp dữ liệu có giá trị pháp lý cho TCPHT trong thời hanh bảy ngày làm việc kể từ ngày chủ thẻ nhận được thông báo hoặc từ ngày quyền và lợi ích của chủ thẻ bị vi phạm. Ngoài ra, chủ thẻ còn có các quyền khác theo hợp đồng sử dụng thẻ đã kí kết với TCPHT.

     Chủ thẻ có các nghĩa vụ sau đối với TCPHT:

 Thứ nhất là cung cấp đầy đủ và chính xác các thông tin cần thiết theo yêu cầu của TCPHT khi yêu cầu phát hành thẻ và trong quá trình sử dụng thẻ. Điều này giúp các TCPHT quản lý thông tin khách hàng, xác minh tính chính xác, đúng đắn của thông tin, kiểm soát tài khoản để thông báo cho khách hàng kịp thời cũng như nhận được thông tin định kỳ hay thông tin đột xuất nhanh chóng.

Thứ hai là thanh toán đầy đủ, đúng hạn cho TCPHT các khoản phí, tiền vay và lãi phát sinh từ việc sử dụng thẻ theo đúng thỏa thuận tại hợp đồng sử dụng thẻ.

Thứ ba là cả chủ thẻ chính và chủ thẻ phụ đều cùng phải chịu trách nhiệm chung và mỗi người chịu trách nhiệm riêng trong việc thực hiện các điều khoản và điều kiện sử dụng thẻ trong hợp đồng sử dụng thẻ giữa chủ thẻ và TCPHT. Chủ thẻ chính chịu trách nhiệm với TCPHT về việc sử dụng thẻ của chủ thẻ phụ, có trách nhiệm thanh toán cho TCPHT tất cả các giao dịch thẻ có chữ ký của chủ thẻ chính và chủ thẻ phụ trên hóa đơn cũng như có sử dụng số PIN. Trường hợp chủ thẻ chính bị chết, mất tích, hoặc bị mất năng lực hành vi thì việc thanh toán cho TCPHT và việc thừa hưởng số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của chủ thẻ chính hoặc số tiền còn lại trên thẻ trả trước định danh được thực hiện theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, chủ thẻ cũng phải thực hiện các nghĩa vụ khác được ghi nhận trong hợp đồng sử dụng thẻ đã kí kết với TCPHT.

     Quyền của TCPHT được quy định trong điều 19 của Quyết định 20/2007/QĐ-NHNN. TCPHT có quyền yêu cầu chủ thẻ cung cấp đầy đủ các thông tin và tài liệu cần thiết nhằm làm rõ các điều kiện sử dụng thẻ của khách hàng khi đề nghị được cung ứng thẻ và trong quá trình sử dụng thẻ. Hoạt động này nhằm đưa ra cơ sở để TCPHT quyết định có cung cấp thẻ cho khách hàng hay không cũng như kiểm soát thông tin khách hàng. Ngoài ra TCPHT cũng có quyền thu thập thông tin từ các tổ chức khác về chủ thẻ hoặc về khách hàng khi đề nghị phát hành thẻ. TCPHT còn có quyền quy định về việc sử dụng thẻ đối với chủ thẻ như từ chối phát hành thẻ nếu khách hàng không đáp ứng đầy đủ các điều khoản và điều kiện sử dụng thẻ; quyết định thu hồi thẻ trong quá trình sử dụng nếu chủ thẻ không thực hiện đầy đủ các điều khoản và điều kiện trong hợp đồng sử dụng thẻ và tăng hoặc giảm hạn mức thấu chi, hạn mức tín dụng; quyết định thu hồi số tiền TCPHT cho chủ thẻ vay; quy định các hình thức đảm bảo an toàn cho việc sử dụng thẻ, quy định loại lãi, mức lãi cho vay đối với chủ thẻ không trái với quy định của pháp luật hiện hành. Nghĩa vụ của TCPHT với chủ thẻ được quy định tại Khoản 1 Điều 20 Quyết định 20/2007/QĐ-NHNN. Đó là nghĩa vụ giải quyết hoặc trả lời các khiếu nại, yêu cầu tra soát của chủ thẻ  cũng như hoàn trả lại số tiền được nạp trên thẻ trả trước chưa sử dụng hết khi có yêu cầu của chủ thẻ. Nghĩa vụ này tương ứng với quyền của chủ thẻ.

2.Mối quan hệ của chủ thẻ và đơn vị chấp nhận thẻ.

Đơn vị chấp nhận thẻ (ĐVCNT) là đơn vị cung ứng hàng hoá dịch vụ ký kết hợp đồng chấp nhận thẻ như một phương tiện thanh toán. Các ngành kinh doanh của các ĐVCNT trải rộng từ những cửa hiệu bán lẻ đến các nhà hàng ăn uống, khách sạn, sân bay…. Tại nhiều nước trên thế giới khi thẻ ngân hàng đã trở thành một phương thức thanh toán thông dụng, chúng ta có thể nhìn thấy những biểu trưng của thẻ xuất hiện rộng rãi tại các cửa hàng. Ở Việt Nam, các ĐVCNT tập trung chủ yếu tại các ngành hàng, dịch vụ phục vụ cho người nước ngoài như hàng thủ công mỹ nghê, nhà hàng, khách sạn, du lịch, các đại lý bán vé máy bay.

Theo khoản 1 Điều 21 Quyết định 20/2007/QĐ-NHNN thì chủ thẻ có quyền sử dụng thẻ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ mà không bị phân biệt giá so với trường hợp thanh toán bằng tiền mặt, không phải trả thêm tiền hoặc phụ phí cho ĐVCNT. Điều này đảm bảo sự công bằng cũng như khuyến khích các tổ chức, cá nhân sử dụng dịch vụ thanh toán bằng thẻ. Luật không quy định nghĩa vụ của các chủ thẻ đối với ĐVCNT tuy nhiên có thể hiểu rằng, chủ thẻ phải xuất trình thẻ để thanh toán và sử dụng đúng thẻ của mình.

Theo luật định, ĐVCNT có quyền thu giữ thẻ khi đó là thẻ giả, người sử dụng thẻ không chứng mình được mình là chủ thẻ hoặc chủ thẻ không thực hiện đúng các quy định của TCPHT( hoặc của tổ chức thẻ quốc tế mà thẻ đó mang nhãn hiệu thương mại) về việc sử dụng thẻ, theo yêu cầu của TCPHT. Tương ứng với quyền của chủ thẻ, ĐVCNT có nghĩa vụ chấp nhận thẻ trong thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ mà không được tăng giá hoặc áp dụng phân biệt giá cả hoặc yêu cầu chủ thẻ trả thêm phụ phí đối với các giao dịch thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ thanh toán bằng thẻ so với thanh toán bằng tiền mặt. Nếu vi phạm sẽ phải chịu các chế tài theo luật định như không được phép kí kết hợp đồng thanh toán bằng thẻ với bất kì TCPHT nào trong thời hạn 1 năm, nếu tái phạm thì thời hạn có thể là 3 hoặc 5 năm.

3.Mối quan hệ giữa TCPHT và ĐVCNT

     TCPHT có các quyền đối với ĐVCNT theo các thỏa thuận trong hợp đồng. Các thỏa thuận này không được trái với quy định của pháp luật. TCPHT cũng có nghĩa vụ phối hợp với TCTTT trong việc thanh toán các khoản chi trả của chủ thẻ.

          ĐVCNT có quyền được TCPHT, TCTTT thanh toán đầy đủ, kịp thời các giao dịch thẻ được thực hiện đúng hợp đồng. Ngoài ra cũng có quyền theo hợp đồng thanh toán thẻ và hợp đồng cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ. Bên cạnh quyền, ĐVCNT  phải thực hiện đầy đủ các quy trình kỹ thuật nghiệp vụ liên quan đến các giao dịch thẻ của chủ thẻ được TCTTT hướng dẫn, phải chịu trách nhiệm về các thiệt hại nếu ĐVCNT không thực hiện đúng các yêu cầu của TCTTT và thực hiện các nghĩa vụ khác theo hợp đồng đã ký kết.

          Ngoài ra, cũng xuất hiện chủ thể là tổ chức thanh toán thẻ là ngân hàng, tổ chức khác không phải là ngân hàng được phép thực hiện dịch vụ thanh toán thẻ. Quyền và nghĩa vụ của tổ chức thanh toán thẻ được quy định chặt chẽ trong  Điều 23 và Điều 24 Quyết định 20/2007/QĐ-NHNN đối với ba chủ thể nói trên.

Ngoài ba mối quan hệ chính nói trên, có thể phát sinh thêm một quan hệ giữa đơn vị chấp nhận thẻ và ngân hàng thanh toán khi tổ chức thanh toán không phải là tổ chức phát hành thẻ.

Ngân hàng thanh toán là ngân hàng chấp nhận các loại thẻ như một phương tiện thanh toán thông qua việc ký kết hợp đồng chấp nhận thẻ với các điểm cung ứng hàng hoá dịch vụ trên địa bàn. Ngân hàng thanh toán sẽ cung cấp cho các ĐVCNT thiết bị phục vụ cho việc thanh toán thẻ, hướng dẫn đơn vị cách thức vận hành, chấp nhận thanh toán thẻ cũng như quản lý và xử lý những giao dịch thẻ tại các đơn vị này. Thông thường ngân hàng thanh toán sẽ thu từ các ĐVCNT một mức phí chiết khấu cho việc chấp nhận thanh toán thẻ của đơn vị, nó có thể tính phần trăm trên giá trị mỗi giao dịch hoặc tính theo tổng giá trị giao dịch thẻ. Mức chiết khấu cao hay thấp phụ thuộc vào từng ngân hàng và vào mối quan hệ chiến lược của ngân hàng với ĐVCNT.

II.Những vấn đề tranh chấp phát sinh trong quá trình sử dụng, thanh toán bằng thẻ.

1.Tranh chấp về vấn đề thẻ bị tính phí khi dùng để thanh toán tại các đơn vị chấp nhận thẻ.

        Trong quyết định số 20/2007/QĐ- NHNN ban hành quy chế phát hành, thanh toán và cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ ngân hàng có quy định quyền sử dụng thẻ trong thanh toán mà không bị phân biệt về giá nhưng trên thực tế các đơn vị chấp nhận thẻ thường viện các lý do khác nhau để không nhận thanh toán bằng thẻ hoặc yêu cầu thanh toán thêm một khoản phí hoặc có sự phân biệt về giá nhằm mục đích từ chối thanh toán bằng thẻ.

Trường hợp của một nhân viên ngân hàng ở TP.HCM cho biết chị khá bực mình về chuyện bị tính thêm phí khi sử dụng thẻ tín dụng thanh toán tiền phòng ở một số khu resort tại Bình Dương, Phan Thiết, thậm chí là một số điểm mua hàng trong TP.HCM. Mặc dù tại các địa điểm này đều có treo bảng chấp nhận thanh toán thẻ nhưng khi thanh toán họ lại “thích” khách hàng thanh toán bằng tiền mặt, còn nếu thanh toán bằng thẻ tín dụng thì phải chịu phí lên tới 3%, nhân viên này cho biết.

Khảo sát thực tế tại một số cửa hàng trên đường Nguyễn Đình Chiểu, quận 3 (TP.HCM), chúng tôi cũng được phần lớn các chủ cửa hàng ở đây “khuyến khích” dùng tiền mặt, nếu không sẽ bị tính phí. Khi được hỏi lý do, trong khi các ngân hàng phát hành đều cho rằng đây là việc làm không đúng theo quy định, thì các chủ cửa hàng lý giải: Ngân hàng thanh toán sẽ thu phí giao dịch từ 2 – 3% trên giá trị giao dịch với mỗi hoá đơn thanh toán bằng thẻ tín dụng. Ở những nơi có khách hàng thanh toán thẻ thường xuyên, phần phí trên thường được cộng vào giá niêm yết. Trong khi đó, lượng khách hàng thanh toán bằng tiền mặt khi mua hàng ở đây chiếm đến 95% nên giá bán là giá chưa tính thêm phần phí ngân hàng sẽ thu, vì vậy họ phải thu thêm từ khách hàng thanh toán bằng thẻ, nếu không họ sẽ lỗ.

Mặt bằng lãi suất thẻ tín dụng đang cán mức từ 22 – 24%, thậm chí có ngân hàng lên đến 28% đang thực sự khiến khách hàng ngần ngại. Khảo sát thực tế tại một số siêu thị, cửa hàng trên địa bàn TP.HCM, phần lớn các chủ cửa hàng đều cho biết, số khách hàng dùng thẻ tín dụng thanh toán gần đây giảm nhiều, vào khoảng 15%. Tiến sĩ Lê Thẩm Dương cho rằng tâm lý người Việt Nam ngại vay nợ, dù vay bằng thẻ. Nếu lãi suất cao quá thì người tiêu dùng dễ trở lại thói quen dùng tiền mặt. Chúng ta chỉ mới có khoảng 3 triệu thẻ tín dụng mà ai cũng cất thẻ trong bóp, thì rất khó để thị trường thẻ phát triển.

Theo quy định của hiệp hội Thẻ Việt Nam và tổ chức Thẻ quốc tế thì các đại lý chấp nhận thẻ không được tính phí khách hàng. Ngân hàng thanh toán (ngân hàng cấp máy cho các đại lý – PV) phải có nhiệm vụ kiểm tra và phạt các đại lý chấp nhận thẻ thu phí của khách hàng. Sau ba lần bị phát hiện thì phải có biện pháp như thu máy, chấm dứt không cho chấp nhận thẻ… với đại lý đó.

Tuy nhiên, thực tế các ngân hàng thanh toán không thực hiện tốt vai trò này vì nhiều lý do, nên số lượng đại lý thu thêm phí của khách hàng thanh toán bằng thẻ vẫn còn phổ biến ở các thành phố có khách du lịch nhiều như Hà Nội, Hội An và TP.HCM… trưởng phòng dịch vụ thẻ của một ngân hàng thương mại cổ phần ở TP.HCM cho biết. Hiện nay, uỷ ban Phòng chống thu phí của tổ chức Thẻ quốc tế Visa đã hoạt động ở Việt Nam, chuyên kiểm tra giám sát các đại lý chấp nhận thẻ và thông báo đến ngân hàng thanh toán có biện pháp xử lý kịp thời khi phát hiện sai phạm của đại lý. Về phần mình, các khách hàng khi bị đại lý nào tính phí thì nên giữ hoá đơn, bảng kê mua hàng để gửi đến ngân hàng phát hành thẻ khiếu nại để được hoàn trả phí.

2.Tranh chấp về việc tài khoản vẫn bị trừ dù không rút được tiền tại các cây ATM

Hiện nay, việc chủ thẻ thực hiện giao dịch nhưng bị thiếu tiền lại trở nên quá phổ biến, có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này nhưng cơ bản vẫn là các thiết bị cung cấp dịch vụ của ngân hàng không đảm bảo chất lượng, các chủ khoản không rút được tiền nhưng tài khoản vẫn bị trừ. Chính vì vậy, các vụ tranh chấp về tình trạng này ngày càng nhiệu Cụ thể là trường hợp sau:

Ông Ngô Xuân Tự, trú tại 86/15 Thi Sách, TP.Đà Nẵng, chủ nhân của thẻ ATM, số tài khoản VND: 100214849046320, thuộc Ngân hàng Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank) cho biết: Sáng 9.4, ông đã đến máy rút tiền tự động số 3, tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương tại Thừa Thiên Huế, số 78 Hùng Vương, TP. Huế để rút tiền từ tải khoản cá nhân kể trên của mình 2 triệu đồng, máy đã báo cho ông là giao dịch không thực hiện được, nhưng khi ông kiểm tra số dư trong tài khoản vẫn bị trừ mất 2 triệu đồng.

Cùng lúc ấy, trên máy điện thoại của ông, cũng nhận được một tin nhắn từ trung tâm dịch vụ tin nhắn 997, thông báo vào lúc 7giờ 42 phút 23 giây, đã rút tiền 2 triệu đồng. Ngay sau đó, điện thoại của ông lại nhận được tin báo là vào lúc 7h47 phút 22 giây, tài khoản đã được gửi vào 2 triệu đồng.  Thấy lạ, ông Tự đến máy rút tiền số 22, cũng tại địa điểm trên và thực hiện giao dịch lại lần 2, nhưng cũng nhận được thông báo là giao dịch không thực hiện được. Thế nhưng lần này kiểm tra số dư ông vẫn bị trừ 2 triệu đồng. Ngay sau đó, trung tâm tin nhắn trên cũng báo lại cho ông là vào lúc 7h 56 phút 22 giây, tài khoản đã bị rút mất 2 triệu đồng.

Hay như việc xảy ra vào 5h chiều ngày 4/12. Trước khi đặt lệnh rút tiền, tài khoản của anh An, làm việc cho một công ty tư nhân ở quận 8, TP HCM, còn tổng cộng 1.339.500 đồng.Máy báo giao dịch không thành công nhưng vẫn trừ 1.250.000 đồng, không tin vào mắt mình, anh liên tục kiểm tra nhiều lần song kết quả vẫn không thay đổi. Số tiền bị hụt đúng bằng nửa tháng lương của anh An. Anh làm đơn kiến nghị tới SCB và được giải quyết bồi hoàn tiền hai ngày sau. Theo anh An, tuy đã lấy lại được số tiền đã mất song vẫn cảm thấy phiền phức và bất an về tình trạng máy ATM hay bị lỗi như nuốt thẻ, không xuất tiền…

Khá nhiều chủ thẻ cũng gặp tình trạng tài khoản vẫn bị trừ dù không rút được tiền, khiếu nại thì NH phục hồi tài khoản. Một cán bộ chuyên về ATM cho biết sự cố này là do mất điện. Khách hàng ra lệnh rút tiền, lệnh đó đưa về ghi lại ở trung tâm điều khiển và trừ tiền trên tài khoản. Khi lệnh chi tiền được truyền trở lại đến máy ATM, ở nơi đặt máy có sự cố như mất điện, khi điện được tái lập thì ATM không còn lưu lệnh chi. Tuy nhiên, NH vẫn phục hồi tài khoản cho khách vì máy ATM báo về trung tâm kết quả chi tiền, kể cả những trường hợp bị lỗi, có lệnh chi nhưng chưa chi.. Theo hợp đồng sử dụng thẻ, chủ thẻ được quyền khiếu nại khi xảy ra sai sót trong giao dịch, nhưng câu trả lời của NH thường không được chủ thẻ chấp nhận.

3.Thẻ giả

         Có thể nói, ngày nay văn minh không dùng tiền mặt để thanh toán đang được phổ biến rộng rãi trong nhiều nước và Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ. Tuy nhiên trong thời đại công nghệ cực thịnh và internet phổ biến trên toàn cầu như hiện nay thì vấn đề bảo mật cho những chiếc thẻ đang làm đau đầu các chuyên gia trong ngân hàng bởi nạn làm giả thẻ và đánh cắp thông tin cá nhân của thẻ đang ngày càng phổ biến nhân rộng với những cách thức tinh vi hơn. Tuy mới phát triển chưa được bao lâu nhưng đã có nhiều vụ khiếu kiện về việc mất tiền trong thẻ ngân hàng đã xảy ra. Thẻ ngân hàng ở Việt Nam thiếu cơ chế đảm bảo an toàn làm cho tài khoản của khách hàng trong thẻ không được bảo vệ tuyệt đối.

Thẻ giả được sử dụng tạo ra các giao dịch giả mạo, gây tổn thất cho các ngân hàng mà chủ yếu là TCPHT vì theo quy định của Tổ chức thẻ quốc tế, TCPHT chịu hoàn toàn trách nhiệm với mọi giao dịch thẻ giả mạo có mã số của NH. Tuy nhiên, trên thực tế chính các chủ thẻ mới là người phải nhận nhiều thiệt thòi hơn.

Ở việt nam hiện tưởng thẻ giả xuất hiện chưa nhiều trên thị trường thẻ nhưng được xác định là sẽ bùng nổ rất nhanh. Thời gian vừa qua CA quận Đống Đa (Hà Nội) bắt khẩn cấp Nguyễn Anh Tuấn (SN 1986, quê Hà Tĩnh, trú tại tập thể Thành Công, Hà Nội) về hành vi làm giả thẻ tín dụng để rút trộm tiền qua hệ thống ATM của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam (VN) với thủ đoạn các đối tượng đã bàn nhau tấn công vào một số trang web bán hàng trực tuyến trên mạng internet, lấy trộm địa chỉ thư điện tử của khách hàng. Sau đó, chúng dùng thư điện tử của chính những trang web này gửi đến các khách hàng, yêu cầu họ khai báo các thông tin chủ thẻ. Những thông tin lấy cắp được, Tuấn và đồng bọn đưa vào đầu đọc dữ liệu để in thẻ rút tiền giả từ thẻ trắng.

Các tranh chấp nói trên là phổ biến nhất hiện này khi khách hàng sử dụng và thanh toán thẻ ngân hàng. Ngoài ra, còn rất nhiều tranh chấp khác mà thiệt thòi thường thuộc về chủ thẻ. Cụ thể như tranh chấp khi chủ thẻ được cấp thẻ nhưng không thể sử dụng, trường hợp mất thẻ, các chủ thẻ yêu cầu được cấp lại nhưng thường bị các ngân hàng hạch họe, từ chối hoặc đưa ra nhiều thủ tục phức tạp, trường hợp giả mạo chữ ký để rút tiền từ thẻ,… . Sự tồn tại của quá nhiều tranh chấp trong việc sử dụng và thanh toán thẻ ngân hàng hiện nay đã khẳng định sự hạn chế trong việc sử dụng thẻ. Quyền lợi của các chủ thể không được đảm bảo tối đa dẫn đến việc các khách hàng không còn tin tưởng vào việc sử dụng thẻ nữa, thay vào đó họ sẽ dùng tiền mặt để đáp ứng mọi nhu cầu chi tiêu của mình. Vấn đề cấp thiết phải đặt ra hiện nay là pháp luật nói chung và các ngân hàng nói riêng cần phải đưa ra những quy chế, biện pháp đảm bảo phù hợp để quyền lợi của những khách hàng sử dụng thẻ được bảo vệ tốt nhất.

III. Một số giải pháp nhằm hạn chế tranh chấp trong quá trình sử dụng và thanh toán thẻ ngân hàng.

Sử dụng và thanh toán bằng thẻ ngân hàng là một xu thế phát triển tất yếu của xã hội văn minh, hiện đại. Như trên đã phân tích, tiềm năng của việc phát triển thẻ ngân hàng ở Việt Nam là rất lớn. Vấn đề là các ngân hàng cần triển khai các biện pháp nào để khai thác được tiềm năng đó trong tương lai gần. Mặc dù đã có nhiều cố gắng từ phía các ngân hàng song thị trường thẻ ngân hàng mới chỉ “nóng” lên một chút. Thật vậy, không phải là các ngân hàng cứ phát hành thẻ là có thị trường. Muốn tạo ra một thị trường đủ sức giao lưu và sánh vai với các nước trên thế giới thì chúng ta phải có một sự chuyển biến đổi mới trong toàn bộ các môi trường xung quanh, tập trung mọi yếu tố hình thành và phát triển thị trường. Qua tiếp cận và nghiên cứu thực tế cùng với ý kiến chủ quan của mình, người viết xin trình bày một số giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển loại hình dịch vụ thẻ ngân hàng còn mới mẻ này.

1.Đối với Nhà nước

a.Tạo môi trường pháp lý thuận lợi

Cũng như mọi hoạt động khác của đời sống kinh tế xã hội, hoạt động thanh toán thẻ cũng cần đến môi trường pháp lý thuận lợi. Cho đến nay, cơ sở pháp lý cao nhất và tương đối chi tiết về mặt nghiệp vụ để các ngân hàng nước ta căn cứ vào đó triển khai cụ thể thêm là Quy chế phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước ban hành ngày 15/05/2007 theo Quyết định số 20/2007/QĐ-NHNN1. Quy chế này ra đời đã góp phần làm thông thoáng hơn và hợp pháp hoá dịch vụ phát hành và thanh toán bằng thẻ ở nước ta. Tuy nhiên, Quy chế này mới chỉ đề cập về phương diện kỹ thuật trong thanh toán thẻ mang tính cơ bản mà chưa có một văn bản hướng dẫn cụ thể nào. Thêm vào đó, khi thực thi, Quy chế này đã bộc lộ những bất cập, đòi hỏi phải chỉnh sửa cho hợp lý hơn và phù hợp với thực tiễn.

Về lâu dài, Nhà nước nên ban hành một Pháp lệnh riêng (hay thấp hơn là Nghị định của Chính phủ) quy định về “sử dụng các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt” – trong đó có phương thức thanh toán bằng thẻ nhằm bảo đảm một hành lang pháp lý cao hơn, khả thi hơn và nhất là thống nhất giữa các ngân hàng phát hành thẻ để hỗ trợ cho ngành ngân hàng góp phần nhiều hơn trong các giải pháp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cũng là tạo thuận lợi cho thị trường thanh toán, giúp cho các nhu cầu có khả năng thanh toán được thực hiện trong một nền kinh tế đang hướng tới sự năng động và hiệu quả.

Ngoài việc ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thanh toán thẻ, Nhà nước cũng cần xem xét chỉnh sửa, bổ sung các điều luật, quy định cũ cho phù hợp với việc xây dựng một thị trường thẻ lớn mạnh ở Việt Nam. Đặc biệt, Nhà nước cần tạo khung hình phạt thật nghiêm khắc đối với những kẻ làm thẻ giả, các hành vi lừa đảo, gian lận trong thanh toán bằng thẻ cũng như các quy định cụ thể về giải quyết tranh chấp, khiếu nại trong sử dụng thẻ để các ngân hàng lấy đó làm cơ sở để đưa ra các hướng dẫn cho khách hàng và các bên liên quan, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động này phát triển.

Ở góc độ quản lý, còn nhiều kẽ hở cần khắc phục như hiện nay khi phát hành thẻ tín dụng quốc tế là chấp nhận chuyển đổi tự do giữa VND và USD không cần xin phép, nhất là khi sử dụng ở nước ngoài. Do đó Nhà nước cần có những điều chỉnh hợp lý hơn, chặt chẽ hơn về quy chế quản lý ngoại hối cho tương thích với hoạt động kinh doanh thanh toán thẻ.

Một công việc nữa mà Nhà nước cần thực hiện để góp phần mở rộng phương thức thanh toán thẻ ngân hàng nói chung và thẻ tín dụng nói riêng là chấn chỉnh công tác thu thuế. Thực hiện tốt công tác này sẽ làm cho tâm lý thích được thanh toán bằng tiền mặt của các đơn vị kinh doanh giảm đi. Vì không trốn được thuế như trước nên họ sẽ tìm đến một phương thức thanh toán tiện lợi hơn đó là thanh toán thẻ, từ đó làm tăng nhu cầu sử dụng thẻ trong dân cư. Bên cạnh đó, để khuyến khích phát triển loại hình này, Nhà nước có thể tạm miễn giảm thuế GTGT cho các đơn vị tham gia hoạt động phát hành và thanh toán thẻ từ 3-5 năm.

b.Nâng cao ý thức pháp luật của người dân

Đây là khâu quan trọng không chỉ có ý nghĩa kinh tế mà còn góp phần làm cho xã hội trở nên văn  minh, lịch sự. Hiện nay, xét về một góc độ nào đó, ý thức tuân thủ pháp luật của người dân chưa cao. Để tránh tình trạng các máy bán hàng, máy rút tiền tự động đặt ở những nơi công cộng bị phá phách như các trạm điện thoại công cộng, chúng ta cần chú ý giáo dục, nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật của người dân cũng như ý thức bảo vệ tài sản nơi công cộng. Tổ chức các chương trình tuyên truyền phổ biến các ưu điểm của thẻ, giúp mọi người có những khái niệm cơ bản về thẻ, tạo tâm lý thích sử dụng thẻ trong mọi tầng lớp dân cư.

c.Tạo môi trường kinh tế, chính trị, xã hội phát triển và ổn định

Môi trường kinh tế, chính trị, xã hội phát triển và ổn định sẽ làm tăng thu nhập dân cư, giá trị đồng nội tệ ổn định, kiềm chế lạm phát, giá cả ít biến động, mở mang dân trí. Trong nền kinh tế như vậy, giá trị thực của đồng tiền không bị sụt giá, khi đó, người dân có lòng tin để sử dụng thẻ (vì thẻ tín dụng mang bản chất tín dụng).

Nền kinh tế ổn định và phát triển sẽ khơi dậy tâm lý tiêu dùng của người dân. Người dân sẽ mua nhiều hàng hoá dịch vụ hơn và sẽ sử dụng thẻ nhiều hơn.

Để ổn định kinh tế, chính trị cũng phải ổn định, đó cũng là điều kiện để cho kinh tế Việt Nam hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, mở rộng giao lưu quốc tế, qua đó phát triển và hoàn thiện thị trường thẻ nước ta.

d.Xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật đủ mạnh, phát triển công nghệ thông tin và ứng dụng công nghệ thông tin.

Trong quá trình công nghiệp hoá – Hiện đại hoá đất nước, việc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho các ngành kinh tế nói chung là một tất yếu mà Nhà nước cần quan tâm. Không giống như các ngành khác, phương thức thanh toán thẻ tín dụng là một phương thức thanh toán ứng dụng công nghệ điện tử, tin học hiện đại, vì vậy đòi hỏi kinh phí đầu tư trang thiết bị máy móc cũng như kinh phí đào tạo cán bộ rất lớn, các ngân hàng không thể tự mình đầu tư mà cần phải có sự giúp đỡ của Nhà nước. Nhà nước có thể xem xét dành một khoản tín dụng trung và dài hạn ưu đãi về lãi suất dưới hình thức tín dụng đầu tư để phát triển công nghệ. Về lâu dài, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp trong nước nghiên cứu, chế tạo máy móc, linh kiện có liên quan đến nghiệp vụ thẻ để hạn chế việc nhập khẩu, làm giảm chi phí đầu vào.

Nhà nước cần phát triển hệ thống thông tin liên lạc và có những biện pháp giảm cước phí viễn thông, giúp các ngân hàng giảm được chi phí trong quá trình thanh toán thẻ.

Nhà nước cũng cần tiếp tục tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho công nghệ thông tin và công nghệ phần mềm phát triển; phải khuyến khích tạo ra các sản phẩm phần mềm ứng dụng trong thanh toán và thương mại điện tử như những phần mềm bảo mật, các thiết bị dự phòng…

Thêm vào đó, Nhà nước cần có những chương trình phổ cập tin học đến mọi người dân, tạo cho mọi người nhận thức được vai trò và sự cần thiết của tin học trong thời đại mới.

2.Đối với Ngân hàng Nhà nước:

Ngân hàng Nhà nước có vai trò rất lớn trong việc định hướng chiến lược chung cho các ngân hàng thương mại thực hiện dịch vụ thẻ thanh toán. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước cần phải thể hiện vai trò chỉ đạo, định hướng cho các ngân hàng thương mại thông qua những giải pháp như:

– Phối hợp với các ngân hàng thương mại Việt Nam, với Hội các  ngân hàng thanh toán thẻ, các Tổ chức Thẻ Quốc tế và một số ngành chức năng liên quan như báo chí, truyền hình… để triển khai chương trình quốc gia giới thiệu và tuyên truyền về thẻ tín dụng quốc tế giúp thay đổi dần thói quen dùng tiền mặt trong tầng lớp dân cư.

– Phối hợp với các ngân hàng và các Tổ chức Thẻ Quốc tế trong việc hoạch định chiến lược khai thác thị trường, thúc đẩy hoạt động phát hành và thanh toán thẻ, ứng dụng tiện ích của công nghệ thẻ đã và đang phát triển trong khu vực và trên thế giới.

– Tranh thủ sự đầu tư của các tổ chức trong nước và quốc tế cho chương trình phát triển thẻ tín dụng ở Việt Nam. Với vai trò chủ đạo của mình, Ngân hàng Nhà nước là đầu mối trong việc xây dựng đề án phát triển thẻ và thu hút vốn của các Ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng, tài chính trong và ngoài nước xây dựng cơ sở hạ tầng cho thanh toán thẻ. Chỉ thông qua con đường này chúng ta mới có được dự phát triển nhanh, hiệu quả và ít tốn kém nhất.

– Thống nhất một chuẩn chung về hạn mức tín dụng và hạn mức thanh toán thẻ cho các ngân hàng phát hành thẻ.

– Xây dựng Trung tâm chuyển mạch thanh toán thẻ tín dụng nội địa liên ngân hàng. Hiện nay, ở nước ta mới chỉ có Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu phát hành thẻ tín dụng nội địa, nhưng trong tương lai sẽ có rất nhiều ngân hàng tham gia vào lĩnh vực này. Lúc đó, nếu mỗi ngân hàng phát triển hệ thống thanh toán khác nhau thì việc thanh toán thẻ của ngân hàng này ở ĐVCNT của ngân hàng khác là rất khó khăn. Vì vậy, ngay từ bây giờ, để hoạt động thanh toán thẻ tín dụng nội địa được trôi chảy cần phải xây dựng Trung tâm chuyển mạch thanh toán thẻ tín dụng nội địa liên ngân hàng, qua đó, một khách hàng gửi tiền hay dùng thẻ của một ngân hàng nào đó có thể rút tiền ở các ngân hàng khác hoặc dễ dàng mua hàng hoá dịch vụ ở tất cả các đơn vị chấp nhận thẻ. Trung tâm này sẽ có nhiệm vụ kiểm soát và thực hiện chuyển các lệnh thanh toán giữa các ngân hàng với nhau đảm bảo các loại thẻ có thể thanh toán ở bất kỳ máy đầu cuối nào của các thành viên trong hệ thống. Muốn vậy, cần đưa ra những tiêu chuẩn chung nhất để tiến tới hình thành mẫu thẻ tín dụng nội địa chung cho các ngân hàng phát hành.

– Đưa ra những biện pháp xử lý những hành vi vi phạm Quy chế nhằm tạo sự cạnh tranh lành mạnh.

3. Đối với Hội các ngân hàng thanh toán thẻ.

– Từ khi thành lập, Hội các ngân hàng thanh toán thẻ Việt Nam đã có rất nhiều nỗ lực nhằm thúc đẩy hoạt động phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ở Việt Nam. Tuy nhiên, Hội cũng cần phải quan tâm, kiểm tra sát sao hơn nữa việc thực hiện của các thành viên cũng như thu hút các thành viên mới. Gần đây một số ngân hàng đã áp dụng những phương pháp cạnh tranh mang tính tiêu cực nhằm thu hút các ĐVCNT. Hiệp hội cần phải có những biện pháp xử lý thích đáng.

– Phối hợp với các Tổ chức Thẻ Quốc tế tổ chức các khoá học đào tạo về nghiệp vụ cho các thành viên, tổ chức các cuộc hội thảo về thẻ tín dụng về các biện pháp đảm bảo an toàn trong sử dụng và thanh toán thẻ tín dụng…

– Là cầu nối gắn kết chặt chẽ các ngân hàng tham gia thanh toán thẻ, là nơi các ngân hàng trao đổi và học hỏi kinh nghiệm.

 


 

1900.0191