THỰC TRẠNG THỦ TỤC HÒA GIẢI TIỀN TỐ TỤNG TRONG CÁC VỤ ÁN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN

Trong những năm qua nền kinh tế phát triển, giá trị đất đai tại khu vực thành thị, nông thôn có chiều hướng gia tăng dẫn đến tỉ lệ thuận số lượng các vụ án tranh chấp về quyền sử dụng đất. Đặc trưng của quan hệ tranh chấp quyền sử dụng đất, đặc biệt ở nông thôn là các đương sự có mối quan hệ họ hàng, gần gũi nhau (do nguồn gốc đất ông cha để lại). Quy trình thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày xưa chưa chặt chẽ, việc đo đạc tứ cận ranh giới giữa các hộ với phương pháp thủ công nên có những sai số nhất định…Đối với loại tranh chấp quyền sử dụng đất, pháp luật quy định trước hết phải qua hòa giải tại Uỷ ban nhân dân phường, xã, thị trấn (sau đây gọi là UBND xã). Các đương sự không đồng ý với kết quả hòa giải (hòa giải không thành) thì có quyền nộp đơn khởi kiện lên Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố (sau đây gọi chung là Tòa án nhân dân cấp huyện) nơi có bất động sản. Như vậy có thể hiểu hòa giải tại UBND xã là thủ tục tiền tố tụng.

Tuy nhiên thực tiễn nhận, xử lý đơn khởi kiện liên quan đến tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân cấp huyện còn một số bất cập liên quan đến công tác hòa giải tại UBND xã. Tại Điều 202 Luật đất đai năm 2013 quy định :

Điều 202. Hòa giải tranh chấp đất đai

  1. Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở.
  2. Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải.
  3. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc hòa giải tranh chấp đất đai tại địa phương mình; trong quá trình tổ chức thực hiện phải phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác. Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân cấp xã được thực hiện trong thời hạn không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai.
  4. Việc hòa giải phải được lập thành biên bản có chữ ký của các bên và có xác nhận hòa giải thành hoặc hòa giải không thành của Ủy ban nhân dân cấp xã. Biên bản hòa giải được gửi đến các bên tranh chấp, lưu tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp.
  5. Đối với trường hợp hòa giải thành mà có thay đổi hiện trạng về ranh giới, người sử dụng đất thì Ủy ban nhân dân cấp xã gửi biên bản hòa giải đến Phòng Tài nguyên và Môi trường đối với trường hợp tranh chấp đất đai giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau; gửi đến Sở Tài nguyên và Môi trường đối với các trường hợp khác.

Phòng Tài nguyên và Môi trường, Sở Tài nguyên và Môi trường trình Ủy ban nhân dân cùng cấp quyết định công nhận việc thay đổi ranh giới thửa đất và cấp mới Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất

 Hướng dẫn cụ thể hóa vấn đề trên, Điều 88 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai

Điều 88. Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai

  1. Khi nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai, Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm thực hiện các công việc sau:

a) Thẩm tra, xác minh tìm hiểu nguyên nhân phát sinh tranh chấp, thu thập giấy tờ, tài liệu có liên quan do các bên cung cấp về nguồn gốc đất, quá trình sử dụng đất và hiện trạng sử dụng đất;

b) Thành lập Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai để thực hiện hòa giải. Thành phần Hội đồng gồm: Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân là Chủ tịch Hội đồng; đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã, phường, thị trấn; tổ trưởng tổ dân phố đối với khu vực đô thị; trưởng thôn, ấp đối với khu vực nông thôn; đại diện của một số hộ dân sinh sống lâu đời tại xã, phường, thị trấn biết rõ về nguồn gốc và quá trình sử dụng đối với thửa đất đó; cán bộ địa chính, cán bộ tư pháp xã, phường, thị trấn. Tùy từng trường hợp cụ thể, có thể mời đại diện Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;

c) Tổ chức cuộc họp hòa giải có sự tham gia của các bên tranh chấp, thành viên Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.”

Việc hòa giải chỉ được tiến hành khi các bên tranh chấp đều có mặt. Trường hợp một trong các bên tranh chấp vắng mặt đến lần thứ hai thì được coi là việc hòa giải không thành….

Trong nội dung bài viết, chỉ đi sâu phân tích vào quá trình tổ chức hòa giải của UBND xã có thẩm quyền khi nhận được đơn của công dân (thời hạn là 45 ngày kể từ ngày nhận được đơn).

Bước 1 UBND xã tiến hành thẩm tra, xác minh tìm hiểu nguyên nhân phát sinh tranh chấp, thu thập giấy tờ, tài liệu có liên quan do các bên cung cấp về nguồn gốc đất, quá trình sử dụng đất và hiện trạng sử dụng đất:

Đối với vấn đề tìm hiểu nguyên nhân phát sinh tranh chấp UBND có thể nắm bắt, tìm hiểu qua lãnh đạo thôn, xóm, lời trình bày của các đương sự hoặc chính bản thân các đồng chí đang công tác tại UBND xã gần nhà các đương sự. Ngoài ra các giấy tờ liên quan đến quá trình sử dụng đất, nguồn gốc thì cơ bản UBND xã đã lưu trữ đầy đủ. Chỉ có một số giấy tờ đương sự cung cấp mà UBND xã không có như văn bản thỏa thuận do các bên tự lập ra khi tiến hành xây nhà tự phân chia lại mốc giới hoặc tự ý đổi chác một phần đất giữa hai gia đình…Tuy nhiên hiện nay một số UBND xã trước khi tiến hành hòa giải không thực hiện việc đo đạc thực trạng 02 nhà đang tranh chấp đất để có căn cứ so sánh số liệu cụ thể với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hồ sơ thửa đất…khi tiến hành hòa giải. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên có thể do một bên đương sự không hợp tác nên không thể tiến hành đo đạc, xác minh hiện trạng được hoặc cũng do nhận thức của cán bộ phụ trách công tác hòa giải không coi trọng vấn đề này. Sẽ rất khó khi hòa giải việc tranh chấp, lấn chiếm  mà lại không biết thực trạng tứ cận của hai thửa đất cụ thể như thế nào?

Bước 2 Thành lập Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai để thực hiện hòa giải.

Thành phần Hội đồng gồm: Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân là Chủ tịch Hội đồng; đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã, phường, thị trấn; tổ trưởng tổ dân phố đối với khu vực đô thị; trưởng thôn, ấp đối với khu vực nông thôn; đại diện của một số hộ dân sinh sống lâu đời tại xã, phường, thị trấn biết rõ về nguồn gốc và quá trình sử dụng đối với thửa đất đó; cán bộ địa chính, cán bộ tư pháp xã, phường, thị trấn. Tùy từng trường hợp cụ thể, có thể mời đại diện Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh: Quan điểm cá nhân về vấn đề này như sau:

– Thứ nhất vấn đề thành lập Hội đồng hòa giả: Trước khi tiến hành hòa giải UBND xã có phải ra Quyết định thành lập Hội đồng hòa giải hay không hay là căn cứ vào chức vụ, chức danh của từng người cụ thể mà Hội đồng hòa giải tự động được thành lập?

– Thứ hai đối với thành phần hòa giải: Chủ trì là Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch là đại diện của UBDN xã nơi tiến hành hòa giải. Ngoài ra có Cán bộ địa chính – người nắm rõ hồ sơ, tài liệu liên quan đến thửa đất; Cán bộ tư pháp – Tư vấn về thể thức văn bản phiên họp, trình tự tổ chức phiên họp; Trưởng thôn – cán bộ cơ sở nắm rõ nội tình sự việc; đại diện Uỷ ban Mặt trận tổ quốc xã – Đại diện cho nhân dân và một số đoàn thể khác như nông dân, phụ nữ, cựu chiến binh, Đoàn thanh niên. Một thành phần mới quy định bắt buộc khi UBND xã tiến hành hòa giải là “đại diện của một số hộ dân sinh sống lâu đời tại xã, phường, thị trấn biết rõ về nguồn gốc và quá trình sử dụng đối với thửa đất đó”. Quy định này xuất phát từ mong muốn được nghe ý kiến của một số hộ dân (hai hộ trở lên) có thể là hàng xóm, các cụ cao niên sinh sống lâu đời, biết rõ nguồn gốc và quá trình sử dụng đất của hai nhà đang tranh chấp. Thực trạng khi nhận đơn khởi kiện, trong biên bản hòa giải thường thiếu thành phần đại diện một số hộ dân nên Tòa án yêu cầu đương sự bổ sung tài liệu chứng cứ vì đối chiếu với quy định pháp luật thiếu thành phần hòa giải nên coi như chưa qua hòa giải – thủ tục tiền tố tụng. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng thiếu đại diện một số hộ tham gia do UBND xã không để ý đến thành phần này mà bỏ qua hoặc chính những người sinh sống lâu năm tại địa phương khi được UBND xã mời tham gia phiên họp thường vắng mặt do không muốn thể hiện quan điểm, vì ủng hộ bên này lại mất lòng bên kia. Khi Tòa án trả lại đơn của đương sự thì bản thân đương sự cho rằng gây khó khăn, UBND xã khi nhận được thông tin như vậy lại cho rằng Tòa án máy móc. Để giải quyết tình trạng trên, theo quan điểm cá nhân UBND xã có thể gửi giấy mời đến một số hộ dân xung quanh, sau đó lưu giấy mời, giấy giao nhận trong hồ sơ hòa giải. Nếu người dân được mời không tham gia phiên họp thì trong biên bản hòa giải vẫn phải ghi “Đại diện một số hộ dân sinh sống lâu năm: Ông Nguyễn Văn A (vắng mặt)” trong biên bản hòa giải. Như vậy Tòa án vẫn coi biên bản hòa giải là đúng, đủ thành phần.

Bước 3 Tiến hành hòa giải:

– Thứ nhất địa điểm tiến hành hòa giải: Thực tế mỗi địa phương tổ chức hòa giải tại mỗi nơi khác nhau. Có UBND xã tiến hành hòa giải tại trụ sở UBND nhưng cũng có nơi lại tổ chức hòa giải tại Hội trường thôn, xóm, Nhà văn hóa thôn, xóm…Thiết nghĩ địa điểm tổ chức hòa giải luật không quy định cụ thể, UBND xã căn cứ vào nội dung vụ việc, thành phần tham gia và việc đi lại của đương sự để lựa chọn địa điểm tổ chức hòa giải cho phù hợp. Ví dụ nếu tổ chức tại Nhà văn hóa thôn, xóm thì thành phần tham dự sẽ đông hơn, ngoài thành phần được mời còn có thể họ hàng, bạn bè, hàng xóm ra chứng kiến. Tuy nhiên cũng có những buổi hòa giải tổ chức tại Nhà văn hóa thôn do có đông người tham dự, an ninh không đảm bảo nên dẫn đến cãi nhau, xô xát…

– Thứ hai nội dung hòa giải: Tại nhiều biên bản hòa giải nội dung chỉ thấy ghi ý kiến 02 đương sự đang tranh chấp tự trình bày về nguồn gốc, hiện trạng sử dụng, tranh chấp ra làm sao, quan điểm hiện nay như thế nào…sau đó đến ý kiến của các đoàn thể như Mặt trận tổ quốc, Trưởng thôn thường mang tính chất khuyên nhủ các bên nên nhường nhịn nhau để giữ “tình làng nghĩa xóm”. Thiết nghĩ, nên quy định việc phát biểu ý kiến theo trình tự nhất định như: Chủ tịch/Phó Chủ tịch phát biểu về nguyên nhân dẫn đến tranh chấp; Cán bộ địa chính trình bày tài liệu chứng cứ liên quan đến 02 thửa đất đang tranh chấp như nguồn gốc, diện tích, các cạnh căn cứ vào sổ mục kê, bản đồ địa chính, hồ sơ thửa đất, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và thực trạng sử dụng hiện nay của các hộ; Lời phát biểu của các bên đương sự về nguồn gốc, tranh chấp và quan điểm hiện nay; Ý kiến của Trưởng thôn, đại diện một số hộ dân, Mặt trận tổ quốc…

Tóm lại nếu hòa giải tại UBND xã thành công sẽ giúp giải quyết triệt để, hiệu quả các tranh chấp mà không phải mở phiên tòa xét xử; tiết kiệm chi phí, thời gian, công sức của các đương sự và Nhà nước. Đồng thời, hòa giải góp phần hàn gắn những rạn nứt, ngăn ngừa các tranh chấp trong tương lai giữa các đương sự; nâng cao ý thức pháp luật của người dân; giữ gìn ổn định trật tự xã hội, tạo sự đồng thuận và xây dựng khối đoàn kết trong nhân dân. Còn nếu hòa giải tại UBND xã không thành nhưng nội dung hòa giải ghi chi tiết ý kiến các bên, thành phần hòa giải đầy đủ cũng là căn cứ, tài liệu quan trọng để Thẩm phán hiểu rõ phần nào nội dung, bản chất vụ án. Từ đó xây dựng những bước đi phù hợp trong quá trình xử lý đơn khởi kiện hoặc giải quyết vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất sau này.

Nguyễn Đình Thành

1900.0191