TÍCH TỤ RUỘNG ĐẤT VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO: ĐÔI ĐIỀU TRĂN TRỞ

TÍCH TỤ RUỘNG ĐẤT VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO: ĐÔI ĐIỀU TRĂN TRỞ

Kết quả hình ảnh cho AGRICULTURAL ECONOMY IN VIETNAMTRẦN ĐỨC VIÊN

Trong lúc còn đang lúng túng để tìm ra một động lực mới cho phát triển nông nghiệp, người ta tin rằng những mảnh ruộng nhỏ bé với tư duy manh mún kiểu ‘tiểu nông’ của người nông dân cá thể và công nghệ sản xuất hiện tại đang là lực cản cho phát triển nông nghiệp hàng hóa theo cơ chế thị trường, và thúc đẩy nông nghiệp công nghệ cao (CNC) để nâng cao giá trị gia tăng nông sản là nhu cầu bức thiết. Vậy có phải tích tụ ruộng đất, nới hạn điền, có phải nông nghiệp CNC thực sự là cứu cánh cho nền nông nghiệp đang bị trì trệ và không bền vững của chúng ta?

PHẦN I: TÍCH TỤ ĐẤT ĐAI VÀ HẠN ĐIỀN 

Tư duy cần phát triển “đại nông” để gỡ bế tắc cho nông nghiệp

Nhiều người cho rằng, để gỡ bế tắc trong phát triển nông nghiệp hiện nay, cần phải phát triển nền ‘đại nông’ theo kiểu phương Tây, nghĩa là phát triển tư bản nông nghiệp. Để làm được điều này thì cần phải xóa bỏ hay nới rộng hạn điền, cần phải tập trung ruộng đất vào tay những người ‘biết làm ruộng’, những người có vốn, có công nghệ, biết tổ chức sản xuất. Thậm chí ở một số địa phương, chính quyền đứng ra thuê đất của nông dân trên 20 năm, rồi giao cho doanh nghiệp (DN) thuê lại [1]. Việc chính quyền tham gia vào quá trình tích tụ này được coi là bước đi đột phá, là sáng tạo. Cũng có nơi DN trực tiếp thuê đất của nông dân hoặc thông thông qua chính quyền địa phương làm trung gian để thuê đất của nông dân [2].

Những người cổ súy cho trào lưu này tin rằng: (1) Tích tụ ruộng đất để thúc đẩy phát triển nông nghiệp theo hướng công nghiệp, áp dụng công nghệ cao, nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh của nông sản hàng hóa là xu hướng tất yếu, cần có chính sách khuyến khích để phát triển nông nghiệp theo hướng này; Nông nghiệp công nghiệp áp dụng CNC sẽ thay thế cho nông nghiệp tiểu nông; (2) Các DN, tập đoàn lớn đầu tư vào nông nghiệp sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ đất đai, thúc đẩy tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp, đẩy nhanh sản xuất hàng hóa, khẳng định vị thế của nông sản Việt Nam (VN) trên thị trường nông sản thế giới.

Ai cũng dễ dàng nhìn ra mặt tích cực cho phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng này: (1) Ở những nơi nông dân đang muốn bỏ ruộng do hiệu quả sản xuất thấp, thì việc DN thuê lại đất để sản xuất nông sản hoàng hóa sẽ mang lại giá trị gia tăng cao cho nông sản và hình thành nền nông nghiệp CNC, qui mô tập trung, mà nông dân – trên lý thuyết – vẫn không mất đất; (2) Một số nông dân trở thành công nhân làm thuê cho DN, có thu nhập cao hơn trước, đồng thời học hỏi được nhiều công nghệ mới, kĩ thuật mới và cung cách quản lý trang trại mới theo cơ chế thị trường; (3) DN thuê ruộng để sản xuất với qui mô lớn thì sẽ tận dụng được lợi thế kinh tế qui mô cả về sản xuất và tiêu thụ, tạo ra giá trị gia tăng cao trên đơn vị diện tích, trên đơn vị đầu tư và trên đơn vị ngày công, nhờ thế, năng suất lao động nông thôn tăng; (4) Thúc đẩy liên kết chuỗi, trong đó DN (các tập đoàn lớn) là đầu tàu, chi phối toàn bộ hoạt động của chuỗi, có thể kiểm soát được chất lượng sản phẩm nông sản và thực phẩm, kết nối nông sản VN với thị trường tòan cầu; vv…

Tuy nhiên một loạt câu hỏi chưa được trả lời, ví dụ: (1) Hiệu quả kinh tế – xã hội và môi trường của các dự án mà các ‘đại gia’ đầu tư vào nông nghiệp thực sự là thế nào? Hay chỉ đến khi có sự cố như Formosa thì mới giật mình xem xét các khía cạnh của việc đầu tư và tích tụ đất đai này? (2) Tính bền vững về mặt tài chính của các dự án nông nghiệp đó như thế nào? Nghĩa là hoạt động sản xuất kinh doanh nông nghiệp đó có tự nó nuôi sống và làm giầu nó được không và như thế nào? Hay các ‘đại gia’ lấy lợi nhuận từ các hoạt động kinh doanh phi nông nghiệp để bù lỗ cho hoạt động nông nghiệp? và họ đã hạch toán ‘ma’ để có các con số chứng minh nông nghiệp CNC là có lãi, mà lãi lớn; và tích tụ đất đai là tất yếu để có các lợi thế ấy. Nếu lãi ‘âm’ thì có phải DN đang thực hiện ‘trách nhiệm xã hội’, hay là họ còn có mục tiêu tài chính dài hạn nào khác[3] (ví dụ chiếm dụng đất để đến một lúc nào đó thay đổi mục đích sử dụng đất chẳng hạn)? (3) Mối quan hệ giữa DN đầu tư, chính quyền địa phương và cộng đồng địa phương hiện tại (ngắn hạn) có vẻ khá ổn thỏa[4] (khi chi phí và lợi ích của các bên có vẻ chấp nhận được), nhưng về dài hạn vẫn chưa có câu trả lời? (4) Khi nông dân cho thuê đất và trở thành công nhân của DN thì tính chất bền vững của mối quan hệ ông chủ-người làm thuê thế nào? Có khác với các loại hình kinh doanh khác không? Như mất việc, vi phạm bảo hiểm xã hội, DN kinh doanh thua lỗ, không đủ khả năng trả công, hay khi người nông dân không muốn làm thuê cho DN nữa, họ có lấy lại được đất không? Sinh kế của họ sẽ ra sao? Nhà nước có ‘nuôi’ họ khi (chẳng may) các DN này thua lỗ hay phá sản không?, v.v…

Thực tiễn ở một số nước: Nới hạn điền không phải là cứu cánh

Cũng có người cho rằng, nới hạn điền không phải là cứu cánh, lịch sử và thực tiễn phát triển nông nghiệp của các nước đông dân và ít đất như Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc đã chứng minh điều này. Chính phủ các nước này đã không mở rộng hạn điền mà nền nông nghiệp của họ vẫn tiến bộ, nông dân của họ vẫn giàu có, DN nông nghiệp của họ vẫn có ‘tiếng nói’ trên thị trường toàn cầu. Philippines (và Brasil nữa) hạn điền rất rộng, diện tích đất của các chủ đất rất lớn, lên đến hàng trăm hàng ngàn hecta, nhưng sản xuất nông nghiệp của họ vẫn kém phát triển, đất nước vẫn không đủ gạo ăn, người nông dân vẫn nghèo. Việt Nam ta tuy diện tích canh tác của nông hộ nhỏ bé, manh mún, công nghệ sản xuất là các công nghệ thường quy, chúng ta vẫn luôn đứng đầu thế giới về nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu; nhưng, buồn là, nông dân ta vẫn chưa giàu, vẫn có người chán ruộng, bỏ ruộng…

Thì ra, hình như nguyên nhân chưa hẳn đã là hạn điền, chưa hẳn là vì chúng ta chưa có nền ‘đại nông’ trong sản xuất nông nghiệp, mà có lẽ còn vì các nguyên nhân khác. Ví dụ như chuỗi giá trị của các ngành hàng nông sản đã không được thiết lập một cách bình đẳng, công bằng, minh bạch; hoặc là, chuỗi giá trị của ngành hàng có đấy, nhưng rất yếu, bị thao túng; người nông dân đã không được tổ chức sản xuất tốt như nông dân Đài Loan, Nhật bản, Hàn Quốc; nền nông nghiệp đã không được thiết kế căn cơ để hội nhập toàn cầu trước khi chúng ta gia nhập WTO nên chúng ta bị cuốn vào nền nông nghiệp hàng hóa giá rẻ, nền nông nghiệp số lượng. Nền nông nghiệp của chúng ta từ chỗ bị phụ thuộc vào khí hậu, thời tiết sang nền nông nghiệp ngoài phụ thuộc vào khí hậu, thời tiết còn bị phụ thuộc vào vật tư nông nghiệp, giống và giá cả. Ở trong nước thì các DN nắm quyền chi phối nông dân, DN trong nước thì bị DN nước ngoài chi phối; vì thế, tuy là cường quốc xuất khẩu nông sản nhưng DN VN không có tiếng nói trên thị trường thế giới. Hầu hết nông dân Nhật bản, Đài Loan hay Hàn Quốc vẫn là nông dân sản xuất quy mô nhỏ, vẫn là ‘tiểu nông’, không phải ‘đại nông’ hay tư bản nông nghiệp, nhưng là nông dân có tri thức, được tổ chức tốt, sản xuất theo tín hiệu thị trường, nông dân đồng thời là doanh nhân, và nhà nước luôn đồng hành cùng họ. Ở các nước này, họ không thúc đẩy phát triển đại nông, không cố gắng xóa bỏ tiểu nông, để thị trường điều tiết về quy mô nông trại và công nghệ áp dụng.

Chuỗi giá trị của các ngành hàng nông sản không được thiết lập một cách bình đẳng, công bằng, minh bạch; chuỗi giá trị của ngành hàng có nhưng rất yếu và bị thao túng; người nông dân không được tổ chức sản xuất tốt; nền nông nghiệp không được thiết kế căn cơ để hội nhập toàn cầu trước khi chúng ta gia nhập WTO nên chúng ta bị cuốn vào nền nông nghiệp hàng hóa giá rẻ, nền nông nghiệp số lượng.

Các DN tích tụ đất đai: còn nhiều rủi ro

Sau một thời gian dài, kể cả khi đã có Nghị định 61/2010/NĐ-CP[5] ngày 04/06/2010 khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp, thì theo báo cáo của VCCI, tính đến năm 2014, số doanh nghiệp trong nông, lâm nghiệp, thủy sản chỉ đạt 1% trong tổng số DN của cả nước và hầu hết các DN trong lĩnh vực này là DN có quy mô vốn nhỏ hơn 5 tỷ đồng. Người ta lý giải sự không mặn mà của DN trong việc đầu tư vào nông nghiệp là do có nhiều trở ngại như rủi ro cao, tỷ suất lợi nhuận thấp, thời gian thu hồi vốn lâu, thời gian thuê đất ngắn, ruộng đất của nông hộ có quy mô nhỏ và phân tán, rất khó đầu tư sản xuất tập trung[6].

Rất may là sau đó, trong thời gian gần đây, đã có nhiều DN có tiềm lực tài chính lớn đầu tư vào nông nghiệp. Nông nghiệp không những chỉ thu hút các DN trong nước mà ở một số địa phương đã có những DN nước ngoài đầu tư[7].

Tại sao các ‘đại gia’ VN bây giờ lại đầu tư vào nông nghiệp? có thể là do:  (1) DN đã tận dụng lợi thế hiện nay về chính sách đất đai là chính quyền cấp tỉnh có thể thu hồi đất để mời doanh nghiệp vào, trước mắt có thể làm nông nghiệp, sau đó có thể chuyển sang mục đích khác. Thực tế, đã có những DN sau khi có được dự án nông nghiệp đã bán và chuyển nhượng toàn bộ hay một phần dự án cho DN khác để kiếm lời. (2) Mặc dù, đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu, đặc biệt và không thể thay thế, nhưng chúng ta chưa có cơ chế thị trường thực sự về đất đai. Nhờ thế, ‘đầu vào’ của các dự án của các đại gia làm nông nghiệp hay bất động sản là “thu hồi” theo giá quy định của Chủ tịch tỉnh, được cố định trong 5 năm, và một số ‘đại gia’ đã có được quỹ đất lớn vốn là đất của các nông lâm trường quốc doanh làm ăn thua lỗ với giá đất gần như cho không để đầu tư phát triển vùng nguyên liệu. Nhưng ‘đầu ra’ của đất vào một ngày đẹp trời nào đó, có thể được bán với giá thị trường cao gấp nhiều lần so với giá thu hồi.

Một số nơi không có quỹ đất để mời DN lớn vào thì chính quyền đứng ra thuê đất của dân rồi cho DN thuê lại trên 20 năm. Cách làm này sai luật và có nhiều rủi ro vì những lý do sau: (1) Theo Luật Dân sự, khi ký kết hợp đồng thuê đất chỉ diễn ra giữa các bên có các tổ chức đăng ký theo luật như là thể nhân (phải là thể nhân) có tư cách pháp nhân, nghĩa là một tổ chức có tài sản riêng hoặc quyền định đoạt tài sản đó theo pháp luật. Chỉ có pháp nhân và thể nhân mới được quyền ký hợp đồng với nhau, UBND các cấp không phải là pháp nhân hay thể nhân trong ký kết hợp đồng thuê đất; (2) Luật pháp nghiêm cấm dùng ngân sách nhà nước để kinh doanh nên chính quyền các cấp đứng ra thuê đất của dân là sai Luật Dân sự chứ không phải là sáng tạo; (3) Giả dụ cho chính quyền địa phương ký hợp đồng thì khó tránh được việc dùng quyền ép dân để lấy đất cho DN. Dân sau khi được đền bù, thì trắng tay và sinh kế lâu dài của nhiều thế hệ sẽ ra sao? (4) đền bù không theo cơ chế thị trường, ví dụ: ký hợp đồng dài hạn trên 20 năm liên quan đến vấn đề giá, mà giá thì khó tiên đoán cho một thời gian dài, nên phải có tỷ lệ trượt giá, ít nhất hai năm cần tính lại giá một lần, theo giá đất thị trường để nông dân không bị thiệt thòi; (5) Nếu doanh nghiệp phá sản, chính quyền có lấy ngân sách đền bù cho dân không?

Cách thức thu gom đất của dân của DN thường theo trình tự: (1) DN trình các dự án/đề án lên chính quyền, thường là cấp tỉnh, (2) chính quyền địa phương cùng DN tiến hành các thủ tục thu hồi đất của dân, (3) DN đên bù đất cho dân (theo mức đất nông nghiệp), giống như thu hồi cho các khu công nghiệp. Cũng có khi DN khảo sát, lựa chọn hộ và ký hợp đồng thuê đất, các hộ sản xuất theo yêu cầu quy trình công nghệ của DN, được DN bao tiêu sản phẩm theo giá của DN, thực ra, đây là dạng liên kết sản xuất giữa DN và nông dân.

Từ một quan sát trực tiếp tại một tỉnh đồng bằng sông Hồng, người ta thấy chính quyền ở địa phương này thuê đất của dân giúp DN như sau:

1) Lựa chọn vùng bờ xôi ruộng mật, gần đường và đất tốt để quy hoạch khu nông nghiệp CNC để mời DN vào; vùng xa, đi lại khó khăn và đất xấu không quy hoạch khu nông nghiệp CNC và DN cũng không thuê;

2) Đất được thuê với giá 140 kg thóc/sào/năm nhưng chi trả bằng giá thóc nhà nước tính thuế (450.000 – 470.000/tạ) trong khi giá thị trường là 800.000/tạ và DN trả 5 năm một lần;

3) Trên 95% nông dân không đồng tình với giá thuê vì: (a) giá thấp gần như bằng 50% giá thị trường, nên nông dân cho rằng sẽ không đủ tiền để mua thóc đảm bảo an ninh lương thực của gia đình; (b) đưa đất cho DN thì mình lấy gì làm kế sinh nhai (tiền sẽ tiêu hết, đất vẫn có thể tạo ra thu nhập),  (c) 140 kg lúc này có vẻ hợp lý, nhưng 5-10 năm nữa, với sự thay đổi về công nghệ và giá cả thì mức đó sẽ không còn hợp lý nữa, lúc đó ai đứng ra bảo vệ người nông dân, (d) diện tích thuê chỉ tính ruộng mà không tính bờ, nhưng diện tích bờ DN vẫn trả cho chính quyền; (đ) DN chỉ thuê lao động trẻ từ 18 đến 35 tuổi, nhưng phần lớn (trên 70%) lao động ở nông thôn hiện nay là người cao tuổi và trẻ em (nên trên thực tế không có DN nào thuê), họ thuê lực lượng lao động 16-35 tuổi là những người bị các DN công nghiệp và dịch vụ từ đô thị và các khu công nghiệp thải về và tình nguyện trở thành công nhân nông nghiệp.

4) Chỉ có khoảng 2-3% hộ hoàn toàn đồng ý vì tuy là nông dân nhưng họ không làm ruộng mà làm các ngành nghề khác ở nông thôn hoặc bỏ quê lên thành phố và các khu công nghiệp làm thuê, họ cho người khác ‘mượn’ ruộng miễn phí để canh tác, không có ai mượn hoặc thuê thì họ bỏ hoang ruộng, giữ đất chờ ‘nhà nước’ mở khu công nghiệp hay khu nông nghiệp CNC, để lấy tiền đền bù[8].

Nhưng đa số các nông hộ vẫn cho chính quyền thuê đất vì họ được một món tiền lớn, đủ để trang trải nợ nần, xây dựng nhà cửa, mua sắm phương tiện gia đình, hay đầu tư học hành cho con cái. ‘Nước đến đâu bắc cầu đến đấy’, khác với thời trước ‘khoán 10’, nông dân ngày nay không còn quá lo lắng về miếng ăn hàng ngày khi thóc gạo rẻ và chỉ cần đi làm thợ xây một ngày họ cũng đã có thể mua được ít nhất là 10kg gạo.

——–

Chú thích của Phần I:

[1] Giá thuê đất rất khác nhau, dao động từ 120kg thóc/sào đến 150kg ngô hạt/sào, cũng có DN nước ngoài trả 25.000 USD/hecta/20 năm, cách thức thanh toán cũng rất đa dạng. Còn nếu như DN mua thì giá đất do UBND cấp tỉnh quy định cho từng khu vực và loại đất.

[2] Có người cho rằng, động cơ hấp dẫn chính quyền địa phương hăng hái giúp DN thuê đất của nông dân hay chính quyền đứng ra thuê đất của nông dân và cho DN thuê lại là diện tích bờ vùng bờ thửa bờ ruộng dôi ra (khoảng 5-8% tùy theo mỗi nơi). Khi trả tiền cho nông dân, họ tính diện tích canh tác thật (trừ bờ), nhưng khi thu tiền của DN thì họ tính diện tích cả vùng.

[3] Một Chuyên gia quản lý cấp cao của một tập đoàn đầu tư lớn vào NNCNC quy mô lớn (hàng trăm, hàng ngàn hecta) trên cả nước khẳng định: sản xuất nông sản hàng hóa theo kiểu nhập khẩu nguyên xi công nghệ của nước ngoài vào VN đang bị thua lỗ nặng, họ phải lấy kinh phí từ các hoạt động kinh doanh khác để bù sang (đối thoại cá nhân).

[4] Tuy nhiên vẫn còn lẻ tẻ đâu đó, trong các dự án chăn nuôi, người dân địa phương bức xúc về vấn đề ô nhiễm môi trường.

[5] Nhằm bổ sung và thay thế cho Nghị định 61/2010/NĐ-CP, ngày 19/12/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định 210/2013/NĐ-CP khuyến khích hơn nữa các DN đầu tư vào nông nghiệp.

[6] Năm 2014, có 3.844 doanh nghiệp nông nghiệp thì đến năm 2015 số doanh nghiệp nông nghiệp giảm xuống chỉ còn 3.640 doanh nghiệp, chiếm tỷ lệ chưa tới 1% so với tổng số doanh nghiệp trên cả nước, trong đó 90% là doanh nghiệp nhỏ, thậm chí siêu nhỏ. Vốn đầu tư tập trung chủ yếu ở các vùng thuận lợi, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và Bắc Bộ, các vùng khó khăn hơn như Trung du miền núi phía Bắc, một số tỉnh miền Trung, Tây Nguyên chưa nhiều nhà đầu tư quan tâm.

[7] Đối tác đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp, nông thôn chưa đa dạng, chủ yếu đến từ châu Á (Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản…) các nhà đầu tư của các quốc gia lớn có thế mạnh về nông nghiệp như Hoa Kỳ, Canada, Australia và các nước Châu Âu đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn chưa nhiều.

[8] Chính sách hỗ trợ đối với các hộ không còn nhu cầu sản xuất nông nghiệp để họ chuyển đổi sang các ngành nghề phi nông nghiệp chưa đủ mạnh (như chính sách hướng nghiệp cho người nông dân, chính sách hỗ trợ tiền chuyển đổi nghề nghiệp….) nên họ vẫn có xu hướng giữ ruộng làm vật “bảo hiểm”, mặc dù đã ngừng canh tác hoặc cho các hộ khác thuê ruộng ngắn hạn phi chính thức.

——-

Tài liệu tham khảo chính:

1. Trần Quốc Toản (2013), Đổi mới quan hệ sở hữu đất đai – Lý luận và thực tiễn. NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội, 2013.

2. Trần Quốc Toản (2013), Đổi mới và hoàn thiện thể chế phát triển nông nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, Hà Nội 2013.

3. Nông nghiệp Việt Nam đứng trước ngã ba đường, http://dantri.com.vn/kinh-doanh/nong-nghiep-viet-nam-dang-dung-truoc-nga-ba-duong-20161030064014869.htm.

4. Luật đất đai 2013, NXB Chính trị Quốc gia, 2013

5. Nguyễn Ðình Bồng (2013). Chính sách tích tụ ruộng đất nhìn từ thực tiễn vùng đồng bằng sông Cửu Long. Tạp chí Cộng sản. 847 (5-2013). tr. 54-58

6. Nguyễn Cúc và Hoàng Văn Hoan (2010). Chính sách của Nhà nước đối với nông dân trong điều kiện thực hiện các cam kết của WTO. NXB Khoa học kỹ thuật. tr 98-209

7. Nguyễn Đình Bồng, Tạ Hữu Nghĩa (2010), “Phân tích, đánh giá vai trò quản lý Nhà nước tác động đến tích tụ ruộng đất”, Cục chính sách  hợp tác và phát triển nông thôn Bộ Nông nghiệp.

8. Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 10/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững.

9. Tích tụ ruộng đất: Giải pháp thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp, http://baoninhbinh.org.vn/tich-tu-ruong-dat-giai-phap-thyc-hien-tai-co-cau-nong-nghiep-2016121308363601p2c21.htm

10. Báo cáo số 13-BC/NN-NT ngày 25 tháng 11 năm 2016 của Vụ Nông nghiệp-Nông thôn, Ban Kinh tế Trung ương, 2016.

11. Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2016, Báo cáo về tình hình tích tụ, tập trung đất đai của một số địa phương thuộc khu vực phía Bắc, 2016

12. Dương Đình Tường, 2009. Nông nghiệp công nghệ cao: Nặng trình diễn, nhẹ hiệu quả, http://nongnghiep.vn/nong-nghiep-cong-nghe-cao-nang-trinh-dien-nhe-hieu-qua-post36762.html

13. Đỗ Kim Chung, Nguyễn Văn Song, Trần Đình Thao, Trần Hữu Cường, Nguyễn Việt Long, Trần Thanh Phương, Nguyễn Xuân Trạch, 2017. Tích tụ đất đai và hạn điền; Trao đổi cá nhân.


PHẦN II: NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO CON ĐƯỜNG TẤT YẾU ĐỂ TĂNG KHẢ NĂNG CẠNH TRANH?

TRẦN ĐỨC VIÊN

Người ta tin rằng, áp dụng nông nghiệp công nghệ cao (NNCNC) vào sản xuất là con đường tất yếu để nâng cao giá trị gia tăng và khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam trên thị trường thế giới, là “quả đấm thép” của tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Nhưng nội hàm của khái niệm NNCNC là gì? NNCNC của Việt Nam có nhất thiết phải xây dựng các “cánh đồng” nhà kính nhà lưới với các thiết bị tự động hóa cao độ – hiện thân của công nghiệp 4.0? Mời bạn đọc đọc tiếp phần II của bài viết “Tích tụ ruộng đất và phát triển nông nghiệp CNC: Đôi điều trăn trở” của tác giả Trần Đức Viên.

Nội hàm khái niệm NNCNC

Người ta tin rằng, áp dụng nông nghiệp công nghệ cao vào sản xuất là con đường tất yếu để nâng cao giá trị gia tăng và khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam trên thị trường thế giới, là ‘quả đấm thép’ của tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Cũng nên lưu ý là, những người cổ súy cho NNCNC lại vẫn thích ăn thịt gà ri thả vườn, thích ăn thịt lợn ỉ nuôi bằng cám gạo và thân chuối, thích ăn gạo và rau được canh tác theo cách mà cha ông ta đã làm, thích ăn sushi từ cá biển tự nhiên trong đại dương hơn là thưởng thức các sản phẩm này từ các trang trại NNCNC.

Vậy thế nào là CNC? Hiện chưa có ai làm rõ nội hàm của CNC trong nông nghiệp là những gì? Cao với ai và cao như thế nào? Với người nông dân một buôn của đồng bào Ê đê cách TP. Buôn Mê Thuột không xa vốn quen canh tác bằng cây gậy chọc lỗ bỏ hạt, cái rìu hay con dao chặt cây, cái cuốc vun cà phê, cùng lắm là biết đến cái máy phun thuốc trừ sâu của một doanh nghiệp (DN) khi DN này phun thuốc trừ bệnh hại mù mịt bầu trời mỗi khi những khu vườn sầu riêng của họ bị bệnh, thì cái bình thủy tinh tam giác dùng nuôi cấy mô, sản xuất ra hàng trăm hàng ngàn cây giống đều nhau tăp tắp là công nghệ cao hay công nghệ thấp? Còn ở Đồng bằng sông Hồng thì công nghệ nuôi cấy mô tế bào đã là công nghệ “thường ngày ở huyện”, vì nó dã được du nhập vào Việt Nam (VN) từ cuối những năm 70 của thế kỉ trước.

Ở VN, khi nói đến NNCNC là người ta thường nghĩ ngay đến những“cánh đồng” nhà kính nhà lưới với thiết bị điều khiển tự động hiện đại kiểu Israel, Hà Lan hay Hoa Kỳ. Công nghệ nông nghiệp trên sa mạc bỏng rẫy của Israel có thể nói là một trong những công nghệ tiên tiến nhất hành tinh. Ở đấy, họ đã tạo ra những khu nông nghiệp khép kín, với giá trị lên tới 120.000-150.000 USD/ hecta/năm, phổ biến ở khắp mọi nơi trên xứ sở này. Các nhà quản lý và các nhà khoa học khuyến khích phát triển NNCNC của chúng ta thường lấy đó làm mô hình khi “thuyết khách”; và họ tin là, đấy chính là “ngày mai” của nông nghiệp nhiệt đới VN, nền nông nghiệp của các công nhân nông nghiệp cổ cồn, có tri thức, chấm dứt hình ảnh nền nông nghiệp “chân lấm tay bùn”. Ở các hệ thống canh tác khép kín này, mọi thông số kỹ thuật, từ tưới tiêu đến bón phân, đo nhiệt độ, độ ẩm, PH, phát hiện sâu bệnh, quyết định ngày giờ thu hái… cho từng đối tượng cây trồng được cập nhật trên máy vi tính. Trong nhà kính họ bố trí hàng loạt máy cảm biến thu nhận các thông số trên và truyền thông tin về máy chủ, máy chủ sẽ làm hàng triệu, hàng tỉ phép tính để đưa ra một quyết định tối ưu nhất như tự động phun nước từ trần nhà kính để tăng độ ẩm, hệ thống quạt mát sẽ khởi động nếu quá nóng, hệ thống bạt sẽ tự động che nhà kính hoặc kéo lên nếu thừa hoặc thiếu ánh sáng, v.v… Cây được trồng vào hệ thống giá thể (có thể gồm đất và các chất hữu cơ, có thể chỉ là giá thể hữu cơ, có thể chỉ là dung dịch hay thậm chí chỉ là ‘không khí’ với đầy đủ dinh dưỡng theo yêu cầu của cây), phân theo từng dàn nâng gắn liền với hệ thống bón, tưới, nâng, hạ… tự động.

NNCNC của VN có nhất thiết phải xây dựng các ‘cánh đồng’ nhà kính nhà lưới với các thiết bị tự động hóa cao độ của nông nghiệp thông minh như thế không?

Một số mô hình NNCNC ở Việt Nam

Từ đầu những năm 2000, sau khi đi thăm các mô hình NNCNC ở Hà lan, Israel, Hoa kỳ… một số nhà quản lý nông nghiệp đã quyết tâm đầu tư xây dựng các khu NNCNC bằng tiền của nhà nước, bắt đầu bằng khu NNCNC của Hadico ở Từ Liêm, Hà Nội (năm 2004, vốn đầu tư 24 tỷ đồng, xây dựng trên diện tích 7,5 hecta với 5.500 m2 trồng dưa chuột, cà chua, ớt ngọt; 2.000 m2 trồng hoa, các giống đều nhập từ Israel), sau đó là Đồ Sơn, Hải Phòng (năm 2007, vốn đầu tư trên 22,5 tỉ đồng cho 8.000 m2 nhà kính canh tác NNCNC, 5.000m2 nhà lưới giản đơn và 12.000 m2 canh tác ngoài trời), Củ Chi, Tp. HCM (diện tích 88 hecta), v.v… Người ta tin rằng, đây là những khu NNCNC tiên phong, tiếp cận khoa học kỹ thuật – công nghệ và quản lý mới của thế giới áp dụng vào ngành nông nghiệp, đưa nền nông nghiệp nước ta hội nhập với nông nghiệp các nước tiên tiến.

Theo một nguồn tin, từ những ngày khởi đầu ấy (năm 2004) đến tháng 12/2015 cả nước đã có 34 khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao (NNƯDCNC) đã và đang được xây dựng tại 19 tỉnh thuộc 7 vùng kinh tế. Ngoài ra, một số địa phương cũng phát triển các khu/cụm NNCNC mà chưa kịp đăng ký hoặc chưa công bố chính thức (ví dụ như Bình Định).

Đánh giá về hiệu quả hoạt động, người ta thấy có một khu NNCNC có lãi rõ (mô hình rau, hoa ở Đà Lạt), 3 khu NNCNC hoạt động có hiệu quả (có thể tự tồn tại được, là Củ Chi, Tp.Hồ Chí Minh, An Thái, Bình Dương và Suối Dầu, Khánh Hòa); còn lại là các khu chưa hiệu quả hoặc không hiệu quả.

Về quy mô: 7 khu có quy mô nhỏ hơn100 hecta (chiếm 21%) gồm Hà Nội, Hải Phòng, Khánh Hòa, TP.HCM, Bình Dương và Cần Thơ; 16 khu có quy mô từ 100 – 200 ha (chiếm 45,5%, gồm Sơn La, Quảng Ninh, Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Tiền Giang và Cần Thơ 3; 5 Khu có quy mô 200 – 400 ha, chiếm 15,2%, gồm: Yên Bình (Thái Nguyên), Giang Biên (Hà Nội), Lạc Dương (Lâm Đồng), Cần Thơ 2; 6 Khu quy mô lớn hơn400 hecta, chiếm 18,2% gồm: Hoài Đức (Hà Nội), Thống Nhất (Thanh Hóa), Phú Yên, An Thái và Phước Sang (Bình Dương), Hậu Giang.

Về vốn đầu tư: 18 khu được xây dựng và quy hoạch bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước của các tỉnh/thành phố sau đó kêu gọi các doanh nghiệp vào đầu tư, chiếm 51,5%; 10 khu sử dụng nguồn vốn đầu tư cơ sở hạ tầng từ các doanh nghiệp (công ty cổ phần và công ty TNHH) làm chủ đầu tư, chiếm 30,3%; 6 khu sử dụng nguồn vốn đầu tư do ngân sách nhà nước ở các tỉnh/thành phố kết hợp với vốn của các doanh nghiệp.

Về sản phẩm: bao gồm giống cây trồng, vật nuôi cho năng suất, chất lượng cao, rau, hoa, quả an toàn, chất lượng cao, cây cảnh, cá cảnh, cây dược liệu, gia súc, gia cầm, bò sữa, bò thịt chất lượng cao, an toàn…

Về công nghệ cao áp dụng: khá đa dạng và phong phú, như các công nghệ thủy canh, khí canh, màng dinh dưỡng, cấy mô, chế phẩm sinh học, tưới nước khoa học, CNTT, sản xuất nấm và chế phẩm vi sinh, chất điều tiết sinh trưởng và vật liệu mới phục vụ sản xuất NNƯDCNC, công nghệ chuyển gen và phương pháp chỉ thị phân tử; phương pháp cắt phôi và thụ tinh trong ống nghiệm; công nghệ tinh, phôi đông lạnh, ứng dụng quy trình chăn nuôi hiện đại, theo dây chuyền, có các hệ thống điều khiển tự động, công nghệ sinh học để sản xuất cá đơn tính; nuôi siêu thâm canh bằng hệ thống tuần hoàn; gây đa bội thể để sản xuất cá chất lượng cao; kỹ thuật tạo màu cá cảnh và nuôi cấy mô tế bào để nhân giống các loài thực vật thủy sinh, v.v…

Lựa chọn công nghệ phù hợp

Rõ ràng là, phát triển NNCNC là cần thiết, là nhu cầu của cuộc sống. Để nhanh chóng chuyển đổi một nền nông nghiệp truyền thống, manh mún, trọng năng suất sang một nền NNCNC định hướng thị trường, chủ động với sự thất thường của thời tiết và biến đổi khí hậu, cần một sự đổi mới căn bản hay nói cách khác là một cuộc cách mạng nông nghiệp lần thứ 2 trong đó NNCNC là chìa khóa. Vậy cụ thể trong điều kiện kinh tế – xã hội của VN thì những công nghệ nào được cho là "cao"?

Với công nghệ nhập khẩu, vẫn cần đầu tư nghiên cứu để nhanh chóng làm chủ công nghệ, Việt Nam hóa công nghệ của nước ngoài. Nếu không có công nghệ hay không làm chủ được công nghệ thì “khô áo ráo tiền”, chúng ta sẽ chỉ đi làm thuê cho DN nước ngoài trên chính đồng đất của mình.

Ở các nước sản xuất nông nghiệp tiên tiến thì mục tiêu của họ là nông nghiệp thông minh, các công nghệ mà họ áp dụng là các thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. NNCNC của VN ưu tiên áp dụng nông nghiệp thông minh ở các nơi có điều kiện (và thực tế đã có nhiều khu nông nghiệp thông minh trên đất nước ta), nhưng không loại trừ các hình thái sản xuất nông nghiệp khác. Vấn đề là, lựa chọn các công nghệ phù hợp, phù hợp với trình độ dân trí và trình độ kinh tế-xã hội của từng vùng, miền cụ thể, định hướng thị trường, vì suy cho cùng mọi công nghệ đều hướng tới có hiệu quả đầu tư, năng suất lao động cao hơn. Ví dụ, ở vùng hạn hán, nhiễm mặn thì cần ứng dụng công nghệ sinh học để chọn tạo ra giống chịu hạn, chịu mặn, mang lại hiệu quả kinh tế – xã hội cao thì có thể xem đó là NNCNC. Những vùng có khả năng đầu tư, có thị trường, có thương hiệu thì có thể áp dụng các mô hình nông nghiệp hiện đại, khép kín, chất lượng cao kiểu Israel, Hà lan hay Hoa kỳ lại là các công nghệ phù hợp.

Công nghệ có thể giải quyết được nhiều hạn chế của môi trường sản xuất, các công nghệ này có thể tự nghiên cứu hay nhập khẩu. Để tăng cường tiềm lực KH&CN quốc gia thì rất cần phải đầu tư để có công nghệ “Made by Vietnam” (chứ không chỉ “Made in Vietnam”); với công nghệ nhập khẩu, vẫn cần đầu tư nghiên cứu để nhanh chóng làm chủ công nghệ, Việt Nam hóa công nghệ của nước ngoài. Nếu không có công nghệ hay không làm chủ được công nghệ thì “khô áo ráo tiền”, chúng ta sẽ chỉ đi làm thuê cho DN nước ngoài trên chính đồng đất của mình. Sự không thành công của ngành sản xuất ô tô, ngành đóng tầu…. là các bài học đắt giá về sáng tạo công nghệ và làm chủ công nghệ. Hơn nữa, nếu không đầu tư cho nghiên cứu sáng tạo công nghệ, tạo ra các công nghệ và thiết bị phù hợp với điều kiện VN, ưu tiên cho “nhập khẩu nguyên chiếc” công nghệ và thiết bị từ các nước có nền NNCNC phát triển nhất thế giới như một số “ông lớn” đã làm vừa qua, biến những cánh đồng lúa thu nhập thấp qua một đêm thành các khu NNCNC hiện đại, thì vô hình trung, NNCNC sẽ trở thành “vùng trời riêng” của các DN vốn lớn, quan hệ rộng, các DN nhỏ và vừa, HTX và các tổ/nhóm nông dân bị gạt ra bên lề “cuộc chơi” này[1].

NNCNC là một hình thức canh tác rất mới ở VN, để phát triển NNCNC, chúng ta cần chuyên gia giỏi, nếu trong nước không có thì tìm chuyên gia quốc tế hỗ trợ VN trong các lĩnh vực sau: (1) Chuyên gia quy hoạch và xác định phân khúc thị trường gắn với lợi thế cạnh tranh sản xuất NNCNC của Việt Nam trên thị trường toàn cầu; (2) Chuyên gia tư vấn từ các nước có nền NNCNC và có thị trường lớn để có thể giúp VN định hướng lĩnh vực/mặt hàng NNCNC chúng ta có lợi thế so sánh, từ đó giúp VN tìm kiếm thị trường và làm chủ thị trường bền vững.

Các nước Hà Lan, Isreal mặc dù có nền NNCNC rất phát triển, nhưng chúng ta khó học hỏi, vì xuất phát điểm của chúng ta rất khác họ, đồng thời thị trường của họ vừa nhỏ vừa ‘khó tính’ nên cũng khó học hỏi về phát triển thị trường. Những nước này có thể hợp tác trong đào tạo hàn lâm, đào tạo định hướng nghề nghiệp, nên chăng chúng ta nên hợp tác NNCNC với các nước có tiềm năng thị trường lớn như Nga, Hoa kỳ, Trung Quốc, Ấn Độ và Nhật bản; Không có thị trường, thì NNCNC nào cũng thất bại.

Nhà nước cần giữ vai trò quy hoạch, định hướng tổng thể cho NNCNC trên quy mô cả nước, không nên giao quy hoạch cho các tỉnh theo địa giới hành chính, dễ dẫn đến quy hoạch manh mún, chồng chéo, đầu tư kém hiệu quả. Do đó, phát triển NNCNC ở nước ta hiện nay cần lưu ý một số điểm then chốt sau:

– NNCNC phải tận dụng được lợi thế so sánh của từng địa phương, vùng miền (khí hậu, thổ nhưỡng, đa dạng sinh học…) để tạo ra các nông sản hàng hóa mang tính đặc trưng của từng vùng sinh thái.

– NNCNC nhằm đạt năng suất và hiệu quả kinh tế cao trên đơn vị diện tích, trên đơn vị đầu tư và trên đơn vị ngày công, nhờ hạ giá thành sản phẩm, chứ không phải làm NNCNC để trình diễn, để thu hút đầu tư hay để chiếm dụng đất đai, chờ thời cơ chuyển đổi mục đích sử dụng đất. NNCNC phải tạo ra được các sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao về chất lượng, giá cả, mẫu mã với các sản phẩm cùng loại trên thị trường trong nước và thế giới, có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất và sản lượng hàng hoá khi có yêu cầu của thị trường.

– NNCNC tạo ra sản phẩm theo một chu trình khép kín theo chuỗi ngành hàng, để khắc phục được những yếu tố rủi ro của tự nhiên và hạn chế rủi ro của thị trường, thì việc thương mại hóa sản phẩm (tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm) và công nghệ chế biến phải được ưu tiên hàng đầu, chứ không phải ưu tiên tích tụ ruộng đất cho các tập đoàn lớn.

– Công nghệ áp dụng cho NNCNC phải là các công nghệ thân thiện với môi trường, để tạo ra các hệ sinh thái đa dạng, bền vững, tạo tiền đề cho phát triển du lịch nông nghiệp trong tương lai.

——–

Chú thích Phần II:

[1] Các “ông lớn” hiện nay không cho công bố giá nhập thiết bị và công nghệ; theo tìm hiểu của chúng tôi, giá các thiết bị và công nghệ này khá cao, các DN nhỏ và vừa, các HTX không thể “với” tới. Ví dụ, giá nhập trọn gói hệ thống nhà trồng cà chua của Israel là khoảng 1 triệu USD/hecta, hệ thống thủy canh tính riêng – giá còn cao hơn nhiều. Theo thông tin từ một nhà thầu trong nước đang cung cấp hạng mục khung nhà kính thì giá là 3,4 tỉ/hecta, tương ứng 340.000đồng/m2 (thông số kỹ thuật, chiều cao tương đương Israel). Giá của Israel riêng nhà không là khoảng 14 tỉ/ hecta, tương ứng 1,4triệu/m2. Nhà do Nhật lắp ghép là nhà khung thấp (nhà Israel là nhà khung cao 7,2-8,5m) chỉ tính riêng khung nhà là 800.000đồng/m2, chưa kể hệ thống làm mát cưỡng bức…


PHẦN III: TÍCH TỤ RUỘNG ĐẤT VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO: KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH

TRẦN ĐỨC VIÊN

Tích tụ ruộng đất và phát triển nông nghiệp CNC một cách thiếu nghiên cứu, thiếu thận trọng có thể đẩy những người nông dân ra “bên lề” của công cuộc hiện đại hóa trong sản xuất nông nghiệp. Vậy nhà nước nên có những chính sách gì để đảm bảo vai trò chủ thể của người nông dân? Sau kỳ I & kỳ II phân tích toàn diện về tích tụ ruộng đất và phát triển nông nghiệp CNC trong loạt bài “Tích tụ ruộng đất và phát triển nông nghiệp CNC: Đôi điều trăn trở”, mời bạn đọc đọc tiếp kỳ cuối “Khuyến nghị chính sách” của tác giả Trần Đức Viên.

Tích tụ, tập trung đất đai

1. Thực tế cho thấy tình trạng nông nghiệp kém hiệu quả hiện nay ở nước ta xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó do diện tích canh tác nhỏ bé, phân tán nên cần phải tích tụ, tập trung đất đai là một trong những nguyên nhân, nhưng chưa hẳn đã là nguyên nhân mang tính quyết định. Người ta cho rằng, nguyên nhân chính của tình trạng kém hiệu quả hiện nay là do tổ chức nông dân (tổ chức sản xuất) và tổ chức thị trường còn có những yếu kém, thể hiện ở chỗ nông nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi toàn cầu ở các khâu có giá trị gia tăng thấp, lao động giản đơn, thiếu sự hỗ trợ của công nghiệp, dịch vụ, chế biến, thiếu thương hiệu có uy tín, sản xuất không theo tín hiệu thị trường, không theo quy hoạch, sử dụng vật tư, giống chất lượng kém dẫn đến chất lượng nông sản thấp, năng lực cạnh tranh trên thị trường nông sản quốc tế yếu, quản lý nhà nước trong lĩnh vực nông nghiệp còn có những hạn chế dẫn đến tình trạng tàn phá tài nguyên[1], ô nhiễm môi trường …

Vì vậy, để tái cơ cấu nông nghiệp hiệu quả, cần các giải pháp toàn diện, trong đó giải pháp tích tụ, tập trung đất nông nghiệp[2] phải đi đôi với cải cách mạnh mẽ các điều kiện của sản xuất nông nghiệp như tổ chức tốt thị trường đầu vào, đầu ra, xây dựng và bảo vệ thương hiệu, tăng cường quản lý chất lượng nông sản, nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành hàng nông nghiệp, tôn trọng qui luật thị trường, để thị trường điều tiết qui mô sản xuất và công nghệ áp dụng với sự định hướng và hỗ trợ của nhà nước… người nông dân đồng thời là doanh nhân trên đồng ruộng của họ, Có như vậy thì nông nghiệp Việt Nam mới có thể bước sang một giai đoạn phát triển mới.

Nhà nước chỉ nên là người tạo ra các luật chơi và thực hiện vai trò kiến tạo của minh, chứ không nên tham gia trực tiếp vào cuộc chơi kiểu như đứng ra thuê đất của nông dân rồi cho DN thuê lại.

2. Tích tụ ruộng đất phải tuân theo quy luật thị trường[3], đảm bảo tính công khai, minh bạch và bình đẳng giữa các chủ thể (hộ gia đình, hợp tác xã, doanh nghiệp, …). Quy luật thị trường sẽ tự nó phân phối nguồn lực đất đai (và các nguồn lực khác như vốn, lao động, và cả công nghệ tương thích nữa) một cách hiệu quả. Chính quyền chỉ nên làm vai trò xúc tác, trung gian hỗ trợ doanh nghiệp (DN) và hộ nông dân trong quá trình thỏa thuận thuê, mua đất. Xu hướng chung là người nông dân không muốn chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tâm lý giữ đất vẫn phổ biến bất chấp nguồn thu nhập phi nông nghiệp được đảm bảo. Do đó, vai trò của thị trường thuê đất cần được chú ý để đảm bảo việc tiếp cận đất đai trong quá trình mở rộng sản xuất nông nghiệp. Mạnh dạn thay đổi chính sách, pháp luật nhằm khuyến khích việc chuyển đổi ruộng đất, cho thuê đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất nông nghiệp để tập trung phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn. Bỏ thời gian giao đất, nên xem xét giao đất nông nghiệp cho nông dân sử dụng lâu dài như đất ở, qua đó tăng giá trị tài sản cho họ khi góp đất vào DN hay cho DN thuê đất.

3. DN có vai trò đầu tàu trong liên kết giúp người nông dân sản xuất theo chuỗi sản phẩm phù hợp với tín hiệu thị trường cả trong và ngoài nước. DN tích tụ ruộng đất nhưng không làm người nông dân mất kế sinh nhai, giúp người nông dân có cuộc sống tốt hơn khi làm nông nghiệp cùng DN. Lúc đó, nông dân mới có điều kiện tự nguyện nhượng cho DN quyền sử dụng đất hay cho thuê đất dài hạn. DN tự thương thảo với người nông dân theo cơ chế thị trường, tức là gặp nhau giữa “cung và cầu”, chính quyền chỉ đứng ra làm chứng, xác nhận để dân yên tâm hơn. Nhà nước chỉ nên là người tạo ra các “luật chơi” và thực hiện vai trò kiến tạo của mình, chứ không nên tham gia trực tiếp vào “cuộc chơi” kiểu như đứng ra thuê đất của nông dân rồi cho DN thuê lại. Cần xem lại tư cách pháp nhân của chính quyền địa phương khi ký kết hợp đồng thuê đất và cho thuê đất giữa nông dân và DN.

Sản xuất nông sản hàng hóa ứng dụng CNC quy mô nông hộ rất thành công ở Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Hà Lan và thậm chí là ở ngay Hoa Kỳ, đất nước có những cánh đồng hút mắt.

4. Về kiến nghị bỏ hạn điền, cần suy xét cẩn trọng trong việc tích tụ ruộng đất quy mô lớn[4], nên chăng chỉ là nới hạn điền. Kiến nghị bỏ hạn điền  mang lại lợi ích không lớn, không chắc chắn, trong khi rủi ro tiềm ẩn lại khá cao. Hãy thử phân tích một số hệ quả và ích lợi mang lại.

Đã có một số DN tập trung được diện tích đất khá lớn nhưng kinh doanh không thành công, khi giao đất, chính quyền kỳ vọng từ các DN nông nghiệp là họ sẽ đầu tư lớn, đưa cơ giới hóa vào sản xuất nông nghiệp, áp dụng giống mới, công nghệ mới, nhờ đó cung cấp khối lượng sản phẩm đạt quy mô xuất khẩu hiệu quả, đồng nhất về kích cỡ, chất lượng, đảm bảo các tiêu chuẩn về thương nhãn, xuất xứ, thương hiệu… Nhưng, để xây dựng thương hiệu, cần một quá trình lâu dài. Quy mô lớn mà không có thương hiệu, không có thị phần ổn định thì rủi ro phá sản khi thị trường giảm giá càng lớn. Mà thị trường nông sản thế giới luôn hoạt động theo chu kỳ tăng, giảm khó đoán định, nhất là với DN Việt Nam, còn rất non trẻ, ít kinh nghiệm trên thương trường quốc tế. Ở khía cạnh này, DN kém “sức sống” hơn hộ gia đình. Bởi vì người nông dân kinh doanh ở quy mô hộ gia đình có khả năng “co giãn” nhu cầu, điều tiết cung cầu để thích ứng với rủi ro thị trường tốt hơn DN. Do đầu tư ít, họ ít chịu áp lực trả nợ ngân hàng; do không phân định rõ tiền lương và lợi nhuận nên hộ nông dân có thể duy trì sản xuất ở mức tiền lương tối thiểu, không có lợi nhuận. Vì thế, nông nghiệp nông hộ sẽ ít chịu hậu quả phá sản khi giá nông sản bước vào chu kỳ giảm so với DN nông nghiệp.

Các rủi ro đem lại tác động tiêu cực của việc bỏ hạn điền có thể là: (i) Sẽ có hiện tượng DN nỗ lực nhận quyền sử dụng đất để đầu cơ, bán lại dự án cho DN khác khiến ruộng đất bị bỏ hoang ở quy mô lớn trong thời gian dài, trong khi dân thiếu đất canh tác dẫn đến hiện tượng lấn chiếm trở lại như từng xảy ra trong lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ những năm qua; (ii) Người giàu có thể thành lập DN (trá hình) để mua đất nhằm tích trữ của cải một cách an toàn, tránh lạm phát và phá sản của ngân hàng. Do mục tiêu là tích trữ của cải nên họ không chú trọng đầu tư để phát triển nông nghiệp dẫn đến một số diện tích đất không được sử dụng hiệu quả, kích động lại chế độ phát canh thu tô ở quy mô nhỏ; (iii) Hiện tượng cho vay nặng lãi (hoạt động ngầm và thịnh hành ở nhiều nơi, không chỉ ở nông thôn) sẽ hỗ trợ cho những người giàu tích tụ đất đai không nhằm kinh doanh nông nghiệp, đồng thời xuất hiện trở lại nhiều hộ nghèo, vì hoàn cảnh khó khăn phải bán đất. Như vậy, quá trình tích tụ đất tự phát sẽ không còn bị ngăn cản bởi hạn điền (mặc dù hạn điền không thể ngăn chặn hoàn toàn quá trình tích tụ đất phi pháp, nhưng hạn chế động cơ tích tụ đất phi pháp do rủi ro lớn).

Việc các DN thâu tóm diện tích quy mô lớn (kiểu AgroHolding của Ukraina), đẩy nông dân ra khỏi đồng ruộng của họ tiềm ẩn nhiều rủi ro và hậu họa khó lường trước.

Như vậy, việc bỏ hạn điền không hứa hẹn một cách chắc chắn rằng có làn sóng đầu tư lớn của DN, tập đoàn lớn vào kinh doanh nông nghiệp, trong khi đó lại tiềm ẩn các tác động tiêu cực khá lớn. Vì vậy, vấn đề này, cần nghiên cứu thận trọng để nếu cần thiết thì mở rộng thêm hạn điền ở quy mô kinh doanh hiệu quả (nới hạn điền).

5. Nên có chính sách khuyến khích các DN, nhất là các DN có tiềm lực tài chính mạnh, đầu tư vào phát triển công nghiệp chế biến nông sản, phát triển chuỗi giá trị sản phẩm nông sản và tổ chức thị trường nội địa và xuất khẩu (kết nối nông dân Việt Nam với thị trường toàn cầu) hơn là khuyến khích các DN tích tụ ruộng đất để sản xuất qui mô lớn theo mô hình phương Tây như hiện nay. Học viện Nông nghiệp Việt Nam (HVNNVN) đã có bài học về việc này khi tổ chức trồng dứa quy mô lớn ở Quảng Trị: (a) Ruộng đất vẫn của nông dân; (b) DN lo đầu vào (cung cấp giống chuẩn, vật tư nông nghiệp như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật chuẩn với giá bán buôn thấp nhất cho nông dân) và lo bao tiêu toàn bộ sản phẩm với giá cả đã được công bố công khai từ đầu vụ (trước khi trồng), nông dân mang nông sản đến các vị trí tập kết, xe tải của DN đến thu mua và trả tiền mặt cho nông dân tại các điểm tập kết gần ngay đồng ruộng của nông dân, khấu trừ tiền giống và vật tư DN đã ứng trước (không tính lãi); (c) HVNNVN cùng DN lo tập huấn (miễn phí) cho nông dân và cử cán bộ kĩ thuật cùng sinh viên thực tập tốt nghiệp chỉ đạo sản xuất trực tiếp; (d) Chính quyền địa phương làm trọng tài, đồng hành cùng nông dân và DN giải quyết các mâu thuẫn, bất đồng phát sinh (nếu có), lo xác đinh các vị trí tập kết, lo tổ chức các nhóm hộ nông dân, Hợp tác xã (HTX) sản xuất theo yêu cầu kĩ thuật và công nghệ của DN và của HVNNVN, lo tu sửa đường xá, hệ thống cấp thoát nước phục vụ sản xuất và thu mua nông sản. Khi diện tích trồng dứa của tỉnh vượt quá 2.000hecta, DN sẽ đầu tư xây dựng một nhà máy chế biến dứa tại chỗ, tỉnh có trách nhiệm tìm đất và tiến hành các thủ tục pháp lý giao đất cho DN xây dựng nhà máy. Như vậy là, DN không trực tiếp sản xuất ra nông sản, chỉ lo “đầu vào” và “đầu ra” của nông sản. Sản xuất trên đồng ruộng là việc của nông dân, tổ chức sản xuất là việc của chính quyền. Tất nhiên là, chính quyền, DN, HVNNVN luôn đồng hành cùng nhau vì lợi ích của DN và của người nông dân. Mô hình này cũng đang được triển khai thành công ở Tây Nguyên.

Với nông dân Việt Nam, trong điều kiện hiện nay, quy mô diện tích bao nhiêu là vừa? chưa ai nghiên cứu kĩ càng vấn đề này cho từng vùng miền, cho từng loại nông sản. Có người cho rằng đất trồng cây hàng năm khoảng 30 hecta, đất vườn trồng cây ăn trái khoảng 100 hecta, đất trồng rừng khoảng 300 hecta là phù hợp, là vừa sức với với trình độ quản lý và công nghệ hiện nay của hộ nông dân.

Việc bỏ hạn điền không hứa hẹn một cách chắc chắn rằng có làn sóng đầu tư lớn của DN, tập đoàn lớn vào kinh doanh nông nghiệp, trong khi đó lại tiềm ẩn các tác động tiêu cực khá lớn. Vì vậy, vấn đề này, cần nghiên cứu thận trọng để nếu cần thiết thì mở rộng thêm hạn điền ở quy mô kinh doanh hiệu quả (nới hạn điền).

Nông nghiệp công nghệ cao

1. Cần có chính sách khuyến khích phát triển NNCNC quy mô lớn, tập trung, nhưng cũng phải quan tâm đúng mức, nếu chưa muốn nói là quan tâm hơn, đến sản xuất quy mô nông hộ[5], tổ/nhóm hộ nông dân, HTX. Xin nhắc lại là, sản xuất nông sản hàng hóa ứng dụng CNC quy mô nông hộ[6] rất thành công ở Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Hà Lan và thậm chí là ở ngay Hoa Kỳ, đất nước với những cánh đồng nhìn hút tầm mắt. Cần phân định rõ và tôn trọng cả hai hình thức: NNCNC và ứng dụng CNC vào sản xuất nông nghiệp. NNCNC hay ứng dụng CNC vào sản xuất nông nghiệp thì cũng phải hướng tới nền nông nghiệp hữu cơ, an toàn, thân thiện với môi trường, tạo tiềm năng phát triển du lịch nông nghiệp.

Thận trọng trong việc nhập khẩu nguyên xi công nghệ tiên tiến "nhất thế giới" của các nhà đầu tư có tiềm lực tài chính mạnh và quan hệ xã hội rộng. Điều đó đóng góp không đáng kể cho việc tăng cường tiềm lực KH&CN quốc gia, buộc chúng ta phải lệ thuộc vào công nghệ, giống, vật tư của nước ngoài. Cần cân nhắc được-mất giữa nhập khẩu lương thực, thực phẩm sang nhập khẩu giống, vật tư, công nghệ; chưa ai đo đếm xem “đắt, rẻ” thế nào giữa hai hình thức nhập khẩu này.

2. Nông dân vẫn phải là chủ thể của ruộng đồng, muốn vậy, bằng một cách nào đó, họ phải được tham gia trực tiếp và gián tiếp vào quá trình vận hành và hoạt động của các khu NNCNC, không thể để nông dân bị đẩy ra "bên lề" của công cuộc phát triển NNCNC. Việc các DN thâu tóm diện tích quy mô lớn (kiểu AgroHolding của Ukraina), đẩy nông dân ra khỏi đồng ruộng của họ tiềm ẩn nhiều rủi ro và hậu họa khó lường trước, ví dụ khi DN bị thua lỗ, ai sẽ tạo sinh kế mới cho nông dân; và khi ấy DN có thể dùng con bài “nông dân” để mặc cả với chính quyền. Nhờ tham gia vào các hoạt động này, họ và con cháu họ học hỏi được kinh nghiệm quản lý và vận hành DN nông nghiệp, hiểu biết về các công nghệ phù hợp; từ đó hình thành tầng lớp nông dân mới, có tri thức, làm chủ công nghệ và biết quản lý, điều hành DN nông nghiệp, làm thay đổi căn bản bộ mặt nông thôn, xác lập vị thế mới của nông sản Việt Nam trên thị trường toàn cầu.

*** Những vấn đề trên cần có các nghiên cứu độc lập và tương đối toàn diện về tác động/hiệu quả của việc tích tụ ruộng đất, nới hạn điền, NNCNC đến phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ môi trường nói chung, đến phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới nói riêng, nhất là tác động đến sinh kế của người dân (ngắn hạn và dài hạn).

Có thể học tập mô hình "Ngân hàng đất nông nghiệp" với mục tiêu nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp và phát triển thế hệ các nông dân trẻ có tri thức như Pháp, Hàn Quốc và Nhật Bản. Ở đó, họ thành lập các công ty (ngân hàng) thu mua đất của nông dân theo giá thị trường, nếu như nông dân không có nhu cầu sử dụng đất để canh tác, và nông dân chỉ có thể mua bán đất hay gửi đất vào các ngân hàng đất này. Ai muốn sử dụng đất để canh tác (trồng trọt, chăn nuôi) thì phải có đề án khả thi, có bằng tốt nghiệp thấp nhất là Trung cấp nông nghiệp, sẽ được các Ngân hàng đất này cho thuê lại, và được vay vốn ưu đãi để phát triển sản xuất.

————–

Chú thích Phần III:

[1] Theo Quỹ Quốc tế bảo vệ Thiên nhiên (WWF), Việt Nam đã đánh mất 43% lượng rừng che phủ từ năm 1973 đến năm 2009.

[2] Ông Sergut Zorya, chuyên gia về nông nghiệp của WorldBank nhận xét: “Bên cạnh những tác động khách quan ảnh hưởng nghiêm trọng đến tăng trưởng nông nghiệp như hạn hán, xâm nhập mặn… thì nông nghiệp Việt Nam đang đối diện với những thách thức nội tại như cơ chế chính sách đất đai, trình độ sản xuất và thương hiệu. Đã vậy, áp lực cạnh tranh ngày càng gia tăng. Xuất khẩu tiếp tục khó khăn cả về lượng lẫn về giá. Gạo Thái Lan có thể bán với giá 800 USD/tấn trong khi gạo xuất khẩu của Việt Nam chỉ đạt 400 USD/tấn”.

[3] Theo một số ghi nhận, thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp hoạt động rất yếu, thậm chí có xu hướng giảm. Trong số đất nông nghiệp đã chuyển nhượng thì 29% chuyển nhượng trước 1994, 41% chuyển nhượng trong giai đoạn 1994 – 2003, 30% chuyển nhượng trong giai đoạn từ 2004 đến nay. Mặt khác, thị trường cho thuê đất còn kém hơn rất nhiều so với thị trường chuyển nhượng đất nông nghiệp.

[4] Có người cảnh giác: Chủ trương tích tụ ruộng đất có đi ngược lại mục đích của cuộc cải cách ruộng đất cách đây hơn 60 năm không? Nếu vậy thì mục tiêu cách mạng đã thay đổi? Đâu là cơ sở lý luận cho vấn đề này? Tích tụ ruộng rất có mâu thuẫn gì với mục tiêu của phát triển nông nghiệp bền vững (tăng trưởng kinh tế, cộng đồng thịnh vượng, bảo vệ môi trường)? Đặc biệt là với sinh kế của đại đa số nông dân trong điều kiện hiện nay khi công nghiệp và dich vụ chưa thể hấp thụ hết lao động dư thừa do “mất đất” ở nông thôn? Liệu cộng đồng nông thôn có thịnh vượng được không hay sẽ gây bất ổn về xã hội?

[5] Chính những hộ nông dân này (nông trại quy mô vừa và nhỏ) là những người đã làm nên kỳ tích của nông nghiệp VN thời gian qua, họ cũng cần được đối xử bình đẳng như DN. DN được thuê đất, mua đất, vay vốn để xây dựng NNCNC thì họ cũng có quyền được thuê đất, mua đất, vay vốn để ứng dụng CNC vào nông nghiệp. Nông dân với 1,5 hecta đất nông nghiệp nếu đem thể chấp ngân hàng chỉ được vay 200-300 triệu đồng, không bằng một chủ sở hữu một ngôi nhà 40m2 có thể thế chấp vay được 3-5 tỷ đồng! Cách làm này, vô hình trung đã hỗ trợ cho người giàu, làm gia tăng khoảng cách giàu-nghèo, gia tăng mâu thuẫn và các bất ổn xã hội.

[6] Trên thực tế, không ít nông hộ đã ứng dụng CNC vào sản xuất. Đa số các nông trại chăn nuôi quy mô vừa và nhỏ của hộ nông dân đều nuôi lợn lai, hoặc lợn siêu nạc có giống gốc từ các "cường quốc" chăn nuôi châu Âu như Bỉ, Đan Mạch.., Bò giống từ Úc, Bỉ, Hà Lan… nuôi theo quy trình chăm sóc nghiêm ngặt, giám sát thú y chặt chẽ, thức ăn chế biến sẵn theo quy chuẩn, v.v… Thế đã đủ để được gọi là CNC chưa?

————-

Tài liệu tham khảo chính

1. Trần Quốc Toản (2013), Đổi mới quan hệ sở hữu đất đai – Lý luận và thực tiễn. NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội, 2013.

2. Trần Quốc Toản (2013), Đổi mới và hoàn thiện thể chế phát triển nông nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, Hà Nội 2013.

3. Nông nghiệp Việt Nam đứng trước ngã ba đường, http://dantri.com.vn/kinh-doanh/nong-nghiep-viet-nam-dang-dung-truoc-nga-ba-duong-20161030064014869.htm.

4. Luật đất đai 2013, NXB Chính trị Quốc gia, 2013

5. Nguyễn Ðình Bồng (2013). Chính sách tích tụ ruộng đất nhìn từ thực tiễn vùng đồng bằng sông Cửu Long. Tạp chí Cộng sản. 847 (5-2013). tr. 54-58

6. Nguyễn Cúc và Hoàng Văn Hoan (2010). Chính sách của Nhà nước đối với nông dân trong điều kiện thực hiện các cam kết của WTO. NXB Khoa học kỹ thuật. tr 98-209

7. Nguyễn Đình Bồng, Tạ Hữu Nghĩa (2010), “Phân tích, đánh giá vai trò quản lý Nhà nước tác động đến tích tụ ruộng đất”, Cục chính sách  hợp tác và phát triển nông thôn Bộ Nông nghiệp.

8. Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 10/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững.

9. Tích tụ ruộng đất: Giải pháp thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp, http://baoninhbinh.org.vn/tich-tu-ruong-dat-giai-phap-thyc-hien-tai-co-cau-nong-nghiep-2016121308363601p2c21.htm

10. Báo cáo số 13-BC/NN-NT ngày 25 tháng 11 năm 2016 của Vụ Nông nghiệp-Nông thôn, Ban Kinh tế Trung ương, 2016.

11. Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2016, Báo cáo về tình hình tích tụ, tập trung đất đai của một số địa phương thuộc khu vực phía Bắc, 2016

12. Dương Đình Tường, 2009. Nông nghiệp công nghệ cao: Nặng trình diễn, nhẹ hiệu quả, http://nongnghiep.vn/nong-nghiep-cong-nghe-cao-nang-trinh-dien-nhe-hieu-qua-post36762.html

13. Đỗ Kim Chung, Nguyễn Văn Song, Trần Đình Thao, Trần Hữu Cường, Nguyễn Việt Long, Trần Thanh Phương, Nguyễn Xuân Trạch, 2017. Tích tụ đất đai và hạn điền; Trao đổi cá nhân

SOURCE: TẠP CHÍ TIA SÁNG ĐIỆN TỬ

Trích dẫn từ: http://tiasang.com.vn/-dien-dan/Tich-tu-ruong-dat-va-phat-trien-nong-nghiep-CNC-Doi-dieu-tran-tro-10647

1900.0191