Cấu trúc của thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất ASEAN – Phân tích yếu tố Tự do di chuyển đầu tư

Đề tài: Anh/chị hãy nêu cấu trúc của thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất ASEAN và phân tích yếu tố cơ bản của thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất trong Cộng đồng kinh tế ASEAN là: tự do di chuyển đầu tư, dưới các góc độ sau:

– Cơ sở pháp lý

Mục tiêu

– Phương thức thực hiện tự do hoá- Đánh giá những tác động của đại dịch Covid-19 tới hiệu quả hợp tác của các quốc gia thành viên trong yếu tố đã lựa chọn.

Thích ứng với sự cạnh tranh thu hút dòng vốn FDI ngày càng tăng trên thế giới, ASEAN đang nỗ lực thiết lập một môi trường đầu tư thuận lợi hơn trong khu vực. Các quốc gia thành viên ASEAN đã cam kết hướng tới một môi trường đầu tư thông thoáng và minh bạch hơn, với mục tiêu tăng cường các dòng đầu tư và thu hút thêm các nhà đầu tư vào khu vực, góp phần hướng tới sự tăng trưởng kinh tế và phát triển của khu vực. Một trong những yếu tố quan trọng góp phần tạo nên một môi trường đầu tư thuận lợi trong khu vực là khuôn khổ hợp tác đầu tư trong ASEAN, đặc biệt là sự tự do dịch chuyển đầu tư

CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT VỀ CẤU TRÚC CỦA THỊ TRƯỜNG VÀ CƠ SỞ SẢN XUẤT THỐNG NHẤT ASEAN

1. Sự ra đời của cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC)

Năm 2003, các nhà lãnh đạo ASEAN đã hoạch định tầm nhìn ASEAN 2020 bao gồm ba trụ cột chính là Cộng đồng An ninh – Chính trị ASEAN (APSC), Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) và Cộng đồng Văn hóa – Xã hội ASEAN (ASCC). Năm 2007, một lần nữa các nhà lãnh đạo nhấn mạnh lại cam kết này, đồng thời quyết định đẩy nhanh quá trình thành lập Cộng đồng kinh tế ASEAN vào năm 2015. Đặc biệt, các nhà lãnh đạo ASEAN đã đồng ý rút ngắn tiến trình hội nhập kinh tế khu vực bằng việc thông qua Kế hoạch hành động AEC và thành lập Cộng đồng kinh tế ASEAN vào năm 2015.

Có thể nói rằng, tiền đề kinh tế chỉ là điều kiện cần cho sự ra đời của AEC, quyết định thành lập Cộng đồng kinh tế ASEAN còn dựa trên các điều kiện đủ là bối cảnh quốc tế và khu vực như: Xu thế toàn cầu hóa và sự chuyển dịch sang nền kinh tế tri thức của nền kinh tế thế giới; Quá trình hợp tác kinh tế ở Đông Á và châu Á – Thái Bình Dương; Xu thế bùng nổ của các hiệp định thương mại tự do; Sức ép cạnh tranh về nền kinh tế Trung Quốc; Tác động từ chiến lược kinh tế của các nước lớn. Do vậy có thể nói rằng, AEC không chỉ là sản phẩm của quá trình hợp tác kinh tế lâu dài mà còn là sản phẩm của bối cảnh tức thời, là sự phản ứng chính sách của các nhà lãnh đạo ASEAN trước sức ép cạnh tranh kinh tế từ bên ngoài và thực tế hợp tác kinh tế chưa hiệu quả trong khối.[1]

Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) là một không gian kinh tế trên nền tảng của Khu vực mậu dịch tự do (AFTA) được mở rộng về phạm vi và nâng cao về mức độ tự do hóa, trong đó về cơ bản không còn thuế quan đối với hàng hóa và có sự  lưu chuyển khá thuận lợi về dịch vụ, đầu tư, vốn và lao động có tay nghề; có mức độ hợp tác khá chặt chẽ trong các lĩnh vực kinh tế ngành; và đã kết nối với các nền kinh tế lớn trên thế giới. AEC vẫn còn nhiều việc phải làm để thực sự trở thành một thị trường duy nhất và một cơ sở sản xuất thống nhất như mục tiêu đề ra.[2]

2. Thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất của ASEAN

Việc thực hiện hóa Cộng đồng kinh tế ASEAN sẽ biến ASEAN thành một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất, theo đó góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của ASEAN. AEC sẽ hỗ trợ hội nhập kinh tế của các khu vực ưu tiên, đồng thời cho phép tự do chuyển nguồn nhân lực có trình độ cao/tài năng trong kinh doanh. Một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất của ASEAN bao gồm 5 yếu tố cốt lõi: (1) Tự do thương mại hàng hóa, (2) tự do thương mại dịch vụ, (3) tự do đầu tư, (4) tự do dòng vốn, (5) tự do di chuyển lao động lành nghề. Ngoài ra, thị trường và cơ sở sản xuất cũng bao gồm 02 thành phần quan trọng là: các lĩnh vực hội nhập ưu tiên; thực phẩm, nông nghiệp và lâm nghiệp. [3]

Hàng rào thuế quan và hàng rào phi thuế quan sẽ từng bước bị xóa bỏ. Các nhà đầu tư ASEAN sẽ được tự do đầu tư vào tất cả mọi lĩnh vực trong khu vực. Các chuyên gia và lao động có tay nghề sẽ được luân chuyển tự do trong khu vực. Những thủ tục hải quan và thương mại khi đã được tiêu chuẩn hóa hài hòa và đơn giản hơn sẽ góp phần làm giảm chi phí giao dịch.[4]

Một thị trường hàng hóa và dịch vụ thống nhất sẽ thúc đẩy phát triển mạng lưới sản xuất trong khu vực, nâng cao năng lực của ASEAN với vai trò là một trung tâm sản xuất toàn cầu đáp ứng yêu cầu đối với chuỗi cung ứng toàn cầu.

Thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất mang lại lợi ích cho các ngành công nghiệp ưu tiên tham gia hội nhập như: nông nghiệp, hàng không (vận chuyển bằng đường hàng không), ô tô, e-ASEAN, điện tử, ngư nghiệp, chăm sóc sức khỏe, cao su, dệt may và thời trang, du lịch, nghành công nghiệp gỗ và các dịch vụ logistics khác…

CHƯƠNG II. TÁC ĐỘNG CỦA TỰ DO DỊCH CHUYỂN ĐẦU TƯ ĐẾN CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN

1. Cơ sở pháp lý

Để thay thế hai hiệp định tiền nhiệm là AIA và Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư (AIG), ACIA nỗ lực thiết lập một cơ chế dựa trên các thông lệ quốc tế tốt nhất song song cùng với việc mở rộng và tái khẳng định các nguyên tắc đặt ra tại AIA và AIG. Để làm được điều này, ACIA đưa ra các định nghĩa rõ ràng và toàn diện phù hợp với các hiệp định quốc tế hiện hành, tăng cường sự hấp dẫn của ASEAN khi là một điểm đến đầu tư chung.

Theo đó, ACIA bao gồm 49 điều và 02 phụ lục. Tự do hóa, bảo hộ, thuận lợi hóa và xúc tiến đầu tư là 4 trụ cột của ACIA, và để đạt được mục tiêu cuối cùng là thành lập AEC vào năm 2015, các nguyên tắc chủ đạo là: (i) Tạo ra một môi trường đầu tư tự do và cởi mở trong khu vực thông qua tự do hóa đầu tư dần dần và tăng cường tính minh bạch và khả năng dự báo của các quy tắc, quy định và thủ tục đầu tư để tạo điều kiện thuận lợi tăng cường đầu tư; (ii) Đem lại lợi ích cho các nhà đầu tư trong nước và quốc tế và các khoản đầu tư của họ tại ASEAN và tăng cường bảo hộ cho nhà đầu tư và vốn đầu tư của họ; (iii) Thúc đẩy toàn bộ khu vực ASEAN thành một khu vực đầu tư thống nhất với các điều kiện thuận lợi cho đầu tư trong nước và quốc tế; (iv) Duy trì và trao cho các quốc gia thành viên sự đối xử ưu đãi mà không đi ngược lại các cam kết trong các hiệp định trước; (v) Trao cho các nước thành viên sự đối xử đặc biệt và khác biệt và các sự linh hoạt khác bao gồm sự đối xử có đi có lại khi nhượng bộ; (v) Sẵn sàng mở rộng phạm vi của ACIA để điều chỉnh các lĩnh vực khác trong tương lai.[5]

2. Mục tiêu tự do hóa đầu tư ACIA

Hiệp định ACIA có 7 nguyên tắc hướng dẫn chung cho các thành viên, trong đó, yêu cầu các nước thành viên cần không ngừng tự do hóa đầu tư nhằm đạt được môi trường tự do và mở cửa trong khu vực. Các nguyên tắc này đòi hỏi các nước thành viên phải có chính sách và lộ trình mở cửa phù hợp với mức độ phát triển của mỗi nước thành viên và trong toàn bộ khu vực nhằm hướng tới mục tiêu tự do hóa của cộng đồng ASEAN. Với mục tiêu tham vọng để xúc tiến ASEAN trở thành một điểm đến cho hoạt động đầu tư, các Quốc gia Thành viên ASEAN đồng ý qua ACIA:

– Tạo ra một môi trường cần thiết để xúc tiến mọi hình thức đầu tư và các lĩnh vực tăng trưởng mới trong ASEAN;

– Xúc tiến đầu tư nội khối ASEAN, đặc biệt là đầu tư từ ASEAN 6 (Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan) trong các Quốc gia Thành viên ASEAN mới hơn;

– Nuôi dưỡng sự tăng trưởng và phát triển của các Doanh nghiệp nhỏ và vừa;

– Xúc tiến các chương trình liên kết đầu tư; tập trung vào các khối khu vực và các mạng lưới sản xuất.

Ngoài ra, ACIA cũng đề cập đến cam kết rằng các Quốc gia Thành viên ASEAN cải thiện sự hợp tác trong một số các lĩnh vực:

– Chuyển đổi chính sách đầu tư; thủ tục đề nghị và chấp thuận đầu tư;

– Trao đổi thông tin về các quy định, quy chuẩn, chính sách và thủ tục liên quan đến đầu tư;

– Cải thiện sự hợp tác giữa các bộ, cơ quan của Chính phủ và nâng cao mức độ tham vấn với các cổ đông khu vực tư nhân để thúc đẩy đầu tư.[6]

Tóm lại, AEC hướng đến một tiến trình hội nhập kinh tế khu vực chứ không phải là một Thỏa thuận hay một Hiệp định với các cam kết ràng buộc thực chất. Tham gia vào các mục tiêu của AEC là hàng loạt các Hiệp định, Thỏa thuận, Chương trình, Sáng kiến, Tuyên bố… giữa các nước ASEAN có liên quan tới các mục tiêu này. Những văn bản này có thể bao gồm những cam kết có tính ràng buộc thực thi, cũng có những văn bản mang tính tuyên bố, mục tiêu hướng tới (không bắt buộc) của các nước ASEAN.

3. Phương thức thực hiện tự do hóa

Tự do hóa đầu tư được thực hiện thông qua việc mở cửa đầu tư, xóa bỏ các biện pháp hạn chế đầu tư, dành chế độ đãi ngộ quốc gia và chế độ tối huệ quốc cho cả nhà đầu tư ASEAN và các nhà đầu tư bên ngoài; bảo hộ đầu tư, các chương trình và hoạt động xúc tiến và thuận lợi hóa đầu tư.

Thứ nhất, mở cửa đầu tư trong khuôn khổ AIA. Theo Khoản 3 Điều 3 ACIA 2009, các quốc gia thành viên sẽ mở cửa và tự do hóa đầu tư trong các lĩnh vực sau: Sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp, khai khoáng và khai thác đá, các dịch vụ liên quan đi kèm của các lĩnh vực trên. Ngoài ra, ACIA còn quy định cho phép tự do hóa đối với bất kì lĩnh vực nào được các quốc gia thành viên nhất trí, quy định này nhằm cho phép tự do hóa một số lĩnh vực, dịch vụ khác sẽ phát sinh trong tương lai. Đồng thời AICA cũng quy định rõ các hoạt động đầu tư không thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định này.

Thứ hai, xóa bỏ các biện pháp hạn chế đầu tư. Biện pháp hạn chế đầu tư trong khuôn khổ AICA, bao gồm 02 loại:

– Các biện pháp yêu cầu đối với đầu tư nước ngoài. ACIA không trực tiếp định nghĩa thế nào là biện pháp yêu cầu hay liệt kê các biện pháp đầu tư liên quan đến yêu cầu, điều kiện đối với đầu tư nước ngoài bị cấm mà dẫn chiếu tới Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs) của WTO. Theo đó, các quốc gia phải loại bỏ, không được áp dụng các biện pháp được liệt kê tại Phụ lục 1A của TRIMs.

– Biện pháp liên quan đến quản trị doanh nghiệp: Yêu cầu một pháp nhân của nước đó bổ nhiệm người có quốc tịch nhất định vào vị trí quản lý cấp cao.

Thứ ba, áp dụng nguyên tắc đối xử quốc gia (NT) và nguyên tắc tối huệ quốc (MFN). AICA quy định các quốc gia thành viên có nghĩa vụ áp dụng nguyên tắc MFN và NT trong lĩnh vực đầu tư. Cụ thể, nguyên tắc về đối xử quốc gia yêu cầu quốc gia thành viên đối xử với các nhà đầu tư của các quốc gia thành viên khác và khoản đầu tư của họ không kém thuận lợi hơn đối với nhà đầu tư của quốc gia mình, bao gồm (nhưng không giới hạn trong): tiếp nhận, thành lập, nắm giữ, mở rộng, quản lý, vận hành và chuyển nhượng đầu tư. Theo nguyên tắc tối huệ quốc, nhà đầu tư của một quốc gia thành viên khi đầu tư vào quốc gia thành viên khác và khoản đầu tư của họ phải được hưởng chế độ đãi ngộ (nhưng không giới hạn trong) về tiếp nhận, thành lập, nắm giữ, mở rộng, quản lý, vận hành và chuyển nhượng đầu tư như nhà đầu tư của quốc gia thứ ba bất kỳ được hưởng.

Ngoài các nội dung trên, ACIA còn quy định cụ thể các trường hợp ngoại lệ trong tự do hóa đầu tư vì các lý do an ninh quốc phòng, sức khỏe con người, động thực vật, bảo vệ các di sản văn hóa, thuần phong mĩ tục…[7]

Thứ tư, về bảo hộ đầu tư. Để bảo hộ cho các khoản đầu tư và các quyền và lợi ích khác của nhà đầu tư, bảo hộ đầu tư trong AIA được quy định từ Điều 11 đến Điều 16 ACIA. ACIA đưa ra định nghĩa rõ ràng và rộng hơn về khái niệm “nhà đầu tư” và “đầu tư”, làm giảm rủi ro và sự không chắc chắn cho các nhà đầu tư và trao thêm quyền cho họ trong trường hợp có tranh chấp. Ngoài mở rộng các định nghĩa, ACIA cũng yêu cầu chính phủ sở tại cam kết bằng các hình thức bảo vệ đầu tư. Một trong những hình thức bảo vệ đó là đối đãi ngang bằng và công bằng – có nghĩa là các nước chủ nhà phải đưa ra quyết định dựa trên luật pháp và không được phép hành động tùy ý và phân biệt đối xử; cung cấp cho các nhà đầu tư quyền tự bảo vệ mình như cho phép tiếp cận với luật sư và quyền kháng cáo. Điều khoản đối xử tối huệ quốc (MFN) bảo đảm thêm rằng các thành viên ASEAN có quyền tương đương như bất kỳ nước nào khác.

4. Đánh giá những tác động của đại dịch Covid-19 tới hiệu quả hợp tác của các quốc gia thành viên

Không thể phủ nhận, tác động của dịch bệnh COVID-19 là trường hợp bất khả kháng, đã gây cản trở rất lớn đến kinh tế các nước ASEAN, hoạt động thương mại nội khối và ngoại khối. Đồng thời đều nhấn mạnh, trong nhiều tháng qua, các nước ASEAN đã có những biện pháp riêng để kiểm soát đại dịch COVID-19 cũng như ứng phó với các tác động kinh tế của dịch bệnh, đặc biệt là hiệu quả hợp tác đầu tư giữa các quốc gia thành viên.

Đứng trước nguy cơ dịch COVID-19 có thể đe dọa tình hình kinh tế các nước ASEAN nói chung, sự phát triển đầu tư nói riêng, khi có sự hợp tác giữa các quốc gia thành viên, các bên phải tạo điều kiện tốt nhất để thúc đẩy hợp tác đầu tư, tháo gỡ dần những khó khăn mà đại dịch này mang lại. Cụ thể như, ưu đãi về thuế xuất, nhập khẩu; tạo cơ hội từ thị trường mua bán, sáp nhập, cổ phần hóa các doanh nghiệp; cũng như tiềm năng trong việc đầu tư tài chính cho các dự án thuộc những lĩnh vực giao thông vận tải, năng lượng và cảng biển trong thời gian tới.

Có thể nói, xu hướng đầu tư nội khối giữa các nước ASEAN trong bối cảnh hình thành AEC ngày càng trở nên rõ nét và quan trọng đối với từng quốc gia thành viên. Đối với Việt Nam, cùng với xuất khẩu, FDI đang là động lực của tăng trưởng kinh tế. Vì thế việc gia tăng đầu tư nội khối giữa các nước ASEAN nói chung và từ ASEAN vào Việt Nam nói riêng có vai trò quan then chốt trong tiến trình thu hút vốn đầu tư, phục vụ cho tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.

Tính luỹ kế qua các năm, Singapore dẫn đầu trong khu vực ASEAN đầu tư vào Việt Nam với số dự án và vốn đăng ký luôn chiếm tỷ trọng cao nhất. Đến tháng 8/2016, Singapore có tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 1,675 tỷ USD (đến cuối năm 2016 là 2,05 tỷ USD), chiếm 60,5% tổng vốn đầu tư; tiếp theo là Thái Lan với 414 triệu USD, chiếm 14,9%; Malaysia với 376,7 triệu USD, chiếm 13,6%; Brunei với 275 triệu USD, chiếm 9,9%. Một số ít dự án còn lại là của Indonesia, Lào và Campuchia.[8]

Theo số liệu thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến hết năm 2020, số vốn đầu tư trực tiếp của Việt Nam vào nền kinh tế các quốc gia khu vực GMS (bao gồm 6 quốc gia nằm trong lưu vực của sông Mekong, gồm có Campuchia, Lào, Myanma, Thái Lan, Trung Quốc (gồm 2 tỉnh Vân Nam và Quảng Tây) và Việt Nam) đạt hơn 9.684 tỷ USD. Trong số các quốc gia khu vực GMS, Lào có 400 dự án với 4,2 tỷ USD (tính đến tháng 9) và Campuchia là 220 dự án và 5,3 tỷ USD (tính riêng 2020), vẫn đang là những thị trường đầu tư quen thuộc, chủ yếu của các doanh nghiệp Việt Nam. Tiếp theo là Myanmar, khi vốn đầu tư trực tiếp của Việt Nam đã đạt khoảng 2,2 tỷ USD năm 2020 trong một thời gian ngắn.[9]

Nhìn chung, ngay cả trước khi đại dịch bùng phát, các nước ASEAN đã có sự tương tác, hỗ trợ lẫn nhau đầu tư trong các lĩnh vực như: năng lượng, cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, công nghiệp du lịch, nông lâm nghiệp và khai khoáng. Đặc biệt hơn, khi đứng trước tác động của đại dịch COVID-19, ASEAN cần hơn lúc nào hết, đẩy mạnh đoàn kết, thống nhất, tương trợ lẫn nhau để cùng vững vàng vượt qua giai đoạn khó khăn, thử thách hiện nay, giữ vững vai trò trung tâm, uy tín và vị thế của ASEAN.  

Bên cạnh đó, các nước ASEAN cũng cần phải tạo nền tảng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tạo điều kiện để họ có khả năng tiếp cận tài chính, vốn, nguồn nhân lực; giúp họ có thể tự bảo vệ mình trước các biến động; thu hút vốn đầu tư nước ngoài đồng thời thúc đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước.

Tóm lại, các nước ASEAN đã xây dựng ACIA theo mô hình của hiệp định đầu tư quốc tế (IIA) thế hệ mới với nhiều điểm đột phá và mang tính chất cách mạng nhằm tạo ra một môi trường đầu tư minh bạch, ổn định và thuận lợi cho các nhà đầu tư trong khu vực. Các quy định của hiệp định về đãi ngộ tối huệ quốc (MFN), đãi ngộ quốc gia (NT) và các tiêu chuẩn bảo hộ tối thiểu (FET) giúp thiết lập cơ chế đầu tư bình đẳng và công bằng cho các nhà đầu tư ASEAN khi thực hiện các dự án trong AEC.

Các quốc gia thành viên ASEAN cũng cần nhất trí tham gia nhiều hơn nữa vào mạng lưới cung ứng toàn cầu bằng việc nâng cao năng suất và hiệu quả công nghiệp. AEC sẽ trở thành tâm điểm của ASEAN với vai trò chủ động tham gia cùng các đối tác FTA ASEAN và đối tác kinh tế bên ngoài trong việc đổi mới kiến trúc khu vực.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Hiệp định Đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA)
  2. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Pháp luật Cộng đồng ASEAN, Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội, 2019, tr153 – 154.
  3. Nguyễn Hằng Nga (2018), Vấn đề tự do hóa đầu tư trong khuôn khổ các hiệp định quốc tế và liên hệ với Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội.
  4. Phan Hữu Thắng, Thu hút FDI từ các nước ASEAN, Báo Nhân dân điện tử, 2016.

Một số bài luận liên quan:

1900.0191