Đất chỉ đứng tên một người trong hôn nhân có thể bán một mình không

Câu hỏi của khách hàng: Đất chỉ đứng tên một người trong hôn nhân có thể bán một mình không

Xin các luật sư cho hỏi:
Tôi là Nguyễn Thị Tuyết Nhung . Đăng ký kết hôn tại quận 5 TP. Hồ Chí Minh.
Sau đó vào Phú Quốc mua đất ở. Đất mua sau kết hôn nhưng chỉ đứng tên Trần Quốc Hùng.
Chúng tôi không có con chung nên ông Trần Quốc Hùng đang tính vào Sài Gòn làm thủ tục ly dị với tôi để bán đất hưởng một mình.
Các luật sư cho tôi hỏi; Trường hợp này ông Hùng có thể có giấy chứng nhận độc thân để bán đất một mình không ạ?
Tôi xin cảm ơn


Luật sư Tư vấn Luật Hôn nhân và gia đình – Gọi 1900.0191

Dựa trên thông tin được cung cấp và căn cứ vào các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, các cam kết, thỏa thuận quốc tế được ký kết nhân danh Nhà nước, Chính phủ Việt Nam.

1./ Thời điểm tư vấn: 05/10/2018

2./ Cơ sở Pháp Luật điều chỉnh vấn đề Xác định chủ sở hữu quyền sử dụng đất xác lập trong thời kỳ hôn nhân

  • Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
  • Nghị định 126/2014/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật hôn nhân và gia đình

3./ Luật sư trả lời Đất chỉ đứng tên một người trong hôn nhân có thể bán một mình không

Theo quy định của pháp luật thì tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân (trừ một số trường hợp theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật được xác định là tài sản riêng) sẽ được xác định là tài sản chung của vợ chồng. Và việc định đoạt tài sản được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng là quyền sử dụng đất được quy định như sau:

Căn cứ Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình:

“Điều 33.Tài sản chung của vợ chồng

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

Căn cứ Điều 12 Nghị định 126/2014/NĐ-CP thì quyền sử dụng đất cũng là một trong những tài sản chung của vợ chồng phải đăng ký quyền sử dụng, quyền sở hữu và trong trường hợp quyền sử dụng đất đã được đăng ký, ghi tên một bên chồng thì người vợ có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền cấp đổi giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đất để ghi tên của cả vợ và chồng.

Theo đó, mặc dù trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ ghi tên người chồng nhưng do mảnh đất này được mua trong thời kỳ hôn nhân nên quyền sử dụng mảnh đất này được xác định là của cả vợ và chồng. Trừ trường hợp một bên vợ hoặc chồng chứng minh được quyền sử dụng đất này được mua bằng tài sản riêng của vợ/chồng, được tặng cho, được thừa kế riêng,… hoặc hai bên vợ chồng có thỏa thuận đây là tài sản riêng theo quy định.

Về việc bán mảnh đất này trong trường hợp trên. Do việc mua mảnh đất được thực hiện trong thời kỳ hôn nhân, hiện nay, Tòa án chưa giải quyết việc ly hôn cho hai người nên người chồng mặc dù đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng không có quyền bán toàn bộ mảnh đất theo ý chí riêng.

Trong trường hợp thực hiện việc ly hôn giữa vợ và chồng thì một trong những yếu tố Tòa án cần giải quyết chính là chia tài sản chung sau ly hôn, Tòa sẽ chỉ không thực hiện việc chia tài sản chung sau ly hôn nếu hai bên không có yêu cầu (tức là hai bên đã thỏa thuận được). Trong trường hợp không thỏa thuận được về việc chia tài sản chung sau ly hôn thì các bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật (trong hoặc sau khi ly hôn).

Như vậy, trong trường hợp bạn đưa ra, mặc dù Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này chỉ đứng tên chồng bạn nhưng theo quy định của pháp luật thì tài sản này vẫn được coi là tài sản chung của vợ chồng, do đó, khi bán tài sản này cần có sự đồng ý của cả hai người. Trong trường hợp có tranh chấp bạn có thể yêu cầu chủ thể có thẩm quyền  giải quyết theo quy định của pháp luật.

Với những tư vấn trên, Công ty Luật LVN mong rằng đã có thể giải đáp được nhu cầu của quý khách, nếu quý khách vẫn còn chưa rõ hoặc có thông tin mới với trường hợp này, quý khách có thể liên hệ Bộ phận Tư vấn pháp luật Miễn phí số: 1900.0191 để được Luật sư hỗ trợ ngay lập tức.

1900.0191