Hợp đồng bảo hiểm tài sản, chế độ bồi thường của bảo hiểm tài sản

Câu hỏi được gửi từ khách hàng: Hợp đồng bảo hiểm tài sản, chế độ bồi thường của bảo hiểm tài sản


Luật sư Tư vấn Luật Kinh doanh bảo hiểm – Gọi 1900.0191

Dựa trên những thông tin được cung cấp và căn cứ vào các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, các cam kết, thỏa thuận quốc tế được ký kết nhân danh Nhà nước, Chính phủ Việt Nam. Chúng tôi đưa ra trả lời như sau:

1./ Thời điểm pháp lý

Ngày 30 tháng 08 năm 2018

2./ Cơ sở Pháp Luật liên quan tới vấn đề Hợp đồng bảo hiểm tài sản, chế độ bồi thường của bảo hiểm tài sản

Luật số 12/VBHN-VPQH năm 2013 Luật kinh doanh bảo hiểm

3./ Luật sư tư vấn

Hợp đồng bảo hiểm tài sản là một hợp đồng bảo hiểm cung cấp sự đền bù về mặt tài chính cho chủ sở hữu hoặc người thuê một công trình và nội thất bên trong nó, trong trường hợp công trình bị hư hỏng hoặc trộm cắp,… Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm tài sản theo quy định của pháp luật là tài sản, bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản. Phù hợp với đối tượng trên, hợp đồng bảo hiểm tài sản , chế độ bồi thường của bảo hiểm tài sản được quy định như sau:

Trước hết, bảo hiểm tài sản được pháp luật chia thành bảo hiểm tài sản trên giá trị và bảo hiểm tài sản dưới giá trị, cụ thể được quy định tại Điều 42 và Điều 43 Luật Kinh doanh bảo hiểm.

Điều 42.Hợp đồng bảo hiểm tài sản trên giá trị

1.Hợp đồng bảo hiểm tài sản trên giá trị là hợp đồng trong đó số tiền bảo hiểm cao hơn giá thị trường của tài sản được bảo hiểm tại thời điểm giao kết hợp đồng. Doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm không được giao kết hợp đồng bảo hiểm tài sản trên giá trị.

2.Trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm tài sản trên giá trị được giao kết do lỗi vô ý của bên mua bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải hoàn lại cho bên mua bảo hiểm số phí bảo hiểm đã đóng tương ứng với số tiền bảo hiểm vượt quá giá thị trường của tài sản được bảo hiểm, sau khi trừ các chi phí hợp lý có liên quan. Trong trường hợp xảy ra sự kiện bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại không vượt quá giá thị trường của tài sản được bảo hiểm.

Điều 43.Hợp đồng bảo hiểm tài sản dưới giá trị

1.Hợp đồng bảo hiểm tài sản dưới giá trị là hợp đồng trong đó số tiền bảo hiểm thấp hơn giá thị trường của tài sản được bảo hiểm tại thời điểm giao kết hợp đồng.

2.Trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm tài sản dưới giá trị được giao kết, doanh nghiệp bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm bồi thường theo tỷ lệ giữa số tiền bảo hiểm và giá thị trường của tài sản được bảo hiểm tại thời điểm giao kết hợp đồng.”

Về chế độ bồi thường bảo hiểm tài sản. Doanh nghiệp bảo hiểm sẽ không chịu trách nhiệm trong trường hợp tài sản được bảo hiểm bị tổn thất do hao mòn tự nhiên hoặc do bản chất vốn có của tài sản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác trong hợp đồng bảo hiểm, nhận định này được quy định tại Điều 45 Luật Kinh doanh bảo hiểm. Các căn cứ bồi thường được quy định cụ thể tại Điều 46 Luật Kinh doanh bảo hiểm như sau:

-Số tiền bồi thường mà doanh nghiệp bảo hiểm phải trả cho người được bảo hiểm được xác định trên cơ sở giá thị trường của tài sản được bảo hiểm tại thời điểm, nơi xảy ra tổn thất và mức độ thiệt hại thực tế, trừ trường hợp có thỏa thuận khác trong hợp đồng bảo hiểm. Theo đó, nếu không có thỏa thuận khác thì doanh nghiệp bảo hiểm xác định số tiền bảo hiểm dựa vào chính thiệt hại và tình huống cụ thể nơi xảy ra thiệt hại. Chi phí để xác định giá thị trường và mức độ thiệt hại do doanh nghiệp bảo hiểm chịu.

-Số tiền bồi thường mà doanh nghiệp bảo hiểm trả cho người được bảo hiểm không vượt quá số tiền bảo hiểm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác trong hợp đồng bảo hiểm. Theo đó, việc xác định số tiền bảo hiểm theo các căn cứ trên phải đảm bảo không vượt quá số tiền bảo hiểm nếu không có thỏa thuận khác, tức là trong trường hợp số tiền bảo hiểm là 100.000.000 đồng mà thiệt hại thực tế lên tới 120.000.000 đồng thì số tiền bảo hiểm mà doanh nghiệp chi trả sẽ là 100.000.000 đồng.

-Tuy nhiên, ngoài số tiền bồi thường nêu trên, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ còn phải trả cho người được bảo hiểm những chi phí cần thiết, hợp lý để đề phòng, hạn chế tổn thất và những chi phí phát sinh mà người được bảo hiểm phải chịu để thực hiện chỉ dẫn của doanh nghiệp bảo hiểm.

Về hình thức bồi thường, bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm có thể thỏa thuận một trong các hình thức bồi thường sau đây:

-Sửa chữa tài sản bị thiệt hại;

-Thay thế tài sản bị thiệt hại bằng tài sản khác;

-Trả tiền bồi thường.

Trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm không thỏa thuận được về hình thức bồi thường thì việc bồi thường sẽ được thực hiện bằng tiền.

Trong trường hợp bồi thường bằng hình thức thay thế tài sản bị thiệt hại hoặc trả tiền bồi thường thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền thu hồi tài sản bị thiệt hại sau khi đã thay thế hoặc bồi thường toàn bộ theo giá thị trường của tài sản được bảo hiểm.

Như vậy, trên đây là quy định của pháp luật về Hợp đồng bảo hiểm tài sản và chế độ bồi thường bảo hiểm tài sản, qua đó, các quy định về chế độ bồi thường cần được chú trọng hơn nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của các bên.

Với những tư vấn về câu hỏi Hợp đồng bảo hiểm tài sản, chế độ bồi thường của bảo hiểm tài sản, Công ty Luật LVN mong rằng đã có thể giải đáp được nhu cầu của quý khách, nếu quý khách vẫn còn chưa rõ hoặc có thông tin mới với trường hợp trên, quý khách có thể liên hệ Bộ phận Tư vấn pháp luật Miễn phí số: 1900.0191 để được Luật sư hỗ trợ ngay lập tức.

1900.0191