Đánh lại người gây tổn hại cho người quen nhưng đã bồi thường thì có phải đi tù không

Câu hỏi của khách hàng: Đánh lại người gây tổn hại cho người quen nhưng đã bồi thường thì có phải đi tù không

Em chào các cô chú anh chị luật sư em có câu hỏi muốn nhờ mọi người giúp ạ:
Bạn em có đi nhậu rồi sau đó bị người khác cầm dao đâm nhưng đỡ lại được nên chỉ đâm vào ngón tay, rồi sau đó bạn em gọi bạn lên để đánh lại bên kia nhưng sau đó bạn em đã ra CA và cũng đã xin lỗi bồi thường cho bên kia, mọi người cho em hỏi nếu bên kia kiện bạn em thì có phải đi tù không ạ


Luật sư Tư vấn Bộ luật tố tụng hình sự – Gọi 1900.0191

Dựa trên thông tin được cung cấp và căn cứ vào các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, các cam kết, thỏa thuận quốc tế được ký kết nhân danh Nhà nước, Chính phủ Việt Nam.

1./ Thời điểm tư vấn: 28/12/2018

2./ Cơ sở Pháp Luật điều chỉnh vấn đề Giá trị của yêu cầu khởi tố vụ án hình sự

  • Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017)
  • Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

3./ Luật sư trả lời Đánh lại người gây tổn hại cho người quen nhưng đã bồi thường thì có phải đi tù không

Theo quy định của pháp luật hình sự thì tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là tội phạm có cấu thành vật chất. Cấu thành tội phạm vật chất là cấu thành tội phạm mà các dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt khách quan của tội phạm bao gồm: hành vi phạm tội, hậu quả do hành vi phạm tội gây ra.

Căn cứ Điều 134 Bộ luật hình sự:

Điều 134. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
1.Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a)Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;
b)Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;
c)Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
d)Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình;
đ)Có tổ chức;
e)Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
g)Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;
h)Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê;
i)Có tính chất côn đồ;
k)Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
2.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm:
a)Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
b)Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30%;
c)Phạm tội 02 lần trở lên;
d)Tái phạm nguy hiểm;
đ)Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này. …”

Theo quy định trên thì việc truy tố người có hành vi cố ý gây thương tích cho người khác theo khung hình phạt nào tùy thuộc vào hậu quả của hành vi này gây ra, cụ thể là tỷ lệ thương tích, tổn hại sức khỏe cho người bị thiệt hại do hành vi cố ý gây thương tích mà người đó gây ra.

Mà theo quy định tại Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự thì việc chủ thể có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác chỉ phụ thuộc vào  việc có yêu cầu của bên bị hại hoặc đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết trong trường hợp kết thúc quá trình điều tra, chủ thể có thẩm quyền quyết định khởi tố về tội phạm được quy định tại Khoản 1 Điều 155 Bộ luật hình sự.

Việc này chỉ xảy ra khi tỷ lệ tổn thương cơ thể mà người vi phạm gây ra không vượt quá 30%. Bởi, trong trường hợp tỷ lệ tổn thương cơ thể của người bị hại lớn hơn 30%, người này sẽ bị khởi tố theo quy định tại Khoản 2 Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự. Khi đó, việc bên có hành vi vi phạm pháp luật có hành vi bồi thường thiệt hại chỉ là tình tiết để các chủ thể có thẩm quyền giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Việc bên bị hại nhận tiền bồi thường thiệt hại không phải là căn cứ để bác bỏ quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của bên bị hại. Ngay cả khi bên bị hại nhận tiền bồi thường rồi, người này vẫn có quyền yêu cầu chủ thể có thẩm quyền khởi tố vụ án.

Như vậy, trong trường hợp của bạn, việc bên bị hại nhận tiền không ảnh hưởng tới quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của họ. Khi người này có đơn yêu cầu, chủ thể có thẩm quyền vẫn sẽ giải quyết theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, trong trường hợp việc khởi tố là về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác không được quy định tại Khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự thì việc nhận bồi thường của bên bị thiệt hại không ảnh hưởng tới việc khởi tố vụ án.

Với những tư vấn trên, Công ty Luật LVN mong rằng đã có thể giải đáp được nhu cầu của quý khách, nếu quý khách vẫn còn chưa rõ hoặc có thông tin mới với trường hợp này, quý khách có thể liên hệ Bộ phận Tư vấn pháp luật Miễn phí số: 1900.0191 để được Luật sư hỗ trợ ngay lập tức.

1900.0191