Câu hỏi của khách hàng: Không đăng ký kết hôn và chỉ ở nhà nội trợ thì có quyền lợi gì?
Giải thích dùm em với mẹ em chỉ làm nội trợ mà lại không đăng ký kết hôn vậy điều 16 luật hôn nhân gia đình 2014 mẹ có quyền lợi không ạ?? Ai rành điều 16 giải thích cho em hiểu với ạ? Em xin cảm ơn
Luật sư Tư vấn Luật hôn nhân và gia đình – Gọi 1900.0191
Dựa trên thông tin được cung cấp và căn cứ vào các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, các cam kết, thỏa thuận quốc tế được ký kết nhân danh Nhà nước, Chính phủ Việt Nam.
1./ Thời điểm tư vấn: 10/01/2019
2./ Cơ sở Pháp Luật điều chỉnh vấn đề Quyền lợi của người ở nhà nội trợ khi không đăng ký kết hôn
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014
3./ Luật sư trả lời Không đăng ký kết hôn và chỉ ở nhà nội trợ thì có quyền lợi gì?
Theo pháp luật Hôn nhân và Gia đình hiện hành, nam nữ sống chung với nhau mà không có đăng ký kết hôn sẽ không được pháp luật công nhận là vợ chồng. Do vậy, việc giải quyết quan hệ về tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của hai bên sẽ được áp dụng theo quy định của Bộ luật dân sự.
Căn cứ Điều 16 Luật hôn nhân và gia đình:
“Điều 16. Giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
1.Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
2.Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập.”
Theo quy định trên bạn có thể thấy quy định này được áp dụng để giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn.
Theo đó, việc nội trợ của mẹ bạn cũng được xác định là lao động có thu nhập. Và việc này là căn cứ để mẹ của bạn xác lập quyền sở hữu tài sản hợp pháp mà gia đình của bạn đã xác lập quyền sở hữu trong thời gian bố và mẹ của bạn sống chung với nhau.
Tuy nhiên, không giống như khi áp dụng các quy định về tài sản chung của vợ chồng (thường được xác định là tài sản chung của hai người khi tài sản được xác lập trong thời kỳ hôn nhân mà không quan trọng người đứng tên sở hữu tài sản). Một tài sản của bố, mẹ bạn xác lập quyền sở hữu trong thời kỳ hôn nhân chỉ được xác định là tài sản chung khi quyền sở hữu tài sản được xác lập cho cả bố và mẹ bạn hoặc người không đứng tên sở hữu tài sản có căn cứ chứng minh mình cũng có quyền sở hữu đối với tài sản đó. Tài sản lúc này là tài sản chung của hai cá nhân (hoặc nhiều hơn) không phải vợ chồng.
Từ quy định trên, có thể thấy khi nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng mà không có đăng kết hôn thì quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không thỏa thuận được thì được giải quyết theo quy định của pháp luật dân sự và các quy định pháp luật liên quan.
Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp đều cần phải đăng ký kết hôn thì cuộc hôn nhân đó mới được công nhận. Bởi, trong một số trường hợp đặc biệt, ngay cả khi hai bên nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng không thực hiện việc đăng ký kết hôn, họ vẫn được Tòa án công nhận quan hệ vợ chồng khi giải quyết ly hôn. Đó là trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03 tháng 1 năm 1987 mà chưa đăng ký kết hôn nay có yêu cầu ly hôn. Mà khi quan hệ vợ chồng được công nhận, quyền và nghĩa vụ của hai bên được căn cứ vào các quy định điều chỉnh các vấn đề trong quan hệ vợ chồng, trong đó, tài sản chung được áp dụng các quy định của tài sản chung của vợ chồng.
Đối với các mối quan hệ khác như quan hệ giữa cha, mẹ và con thì việc hôn nhân được công nhận hay không không ảnh hưởng tới việc áp dụng các quy định tại Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 và các văn bản liên quan để giải quyết.
Như vậy, đối với việc không đăng ký kết hôn thì tùy vào từng vụ việc cụ thể, quyền và nghĩa vụ của người phụ nữ sẽ được xác định theo đúng quy định của pháp luật. Trong trường hợp thông thường, khi hai bên nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, người vợ thực hiện công việc nội trợ ở nhà được coi là lao động có thu nhập theo quy định tại Điều 16 Luật hôn nhân và gia đình.
Với những tư vấn trên, Công ty Luật LVN mong rằng đã có thể giải đáp được nhu cầu của quý khách, nếu quý khách vẫn còn chưa rõ hoặc có thông tin mới với trường hợp này, quý khách có thể liên hệ Bộ phận Tư vấn pháp luật Miễn phí số: 1900.0191 để được Luật sư hỗ trợ ngay lập tức.