Câu hỏi của khách hàng: Chồng tự ý sang tên đất không có sự đồng ý của vợ thì có coi là chiếm đoạt tài sản không?
Bố mẹ em đã không ở chung với nhau từ lâu rồi. Lúc trước mẹ có đưa đơn ly hôn nhưng bố không ký. Nhà em có miếng đất đứng tên của mẹ. Bằng cách nào đó bố đã sang tên bìa đỏ cho bố ( bố giữ chứng minh thư của mẹ). Bố sang tên mà không có sự đồng ý của mẹ. Cho em hỏi như vậy có được gọi là chiếm đoạt tài sản trong thời gian ly thân? ( như em đã nói vì cũng đã lâu rồi bố mẹ không ở với nhau nên có thể gọi là đơn thân ly thân chứ ạ?) Giờ bố muốn bán miếng đất đó làm của riêng. Giờ chẳng biết làm thế nào nữa.
Nhờ các anh chị đưa ra lời khuyên và giải đáp thắc mắc hộ em. Em xin chân thành cảm ơn!
Luật sư Tư vấn Luật hôn nhân và gia đình – Gọi 1900.0191
Dựa trên thông tin được cung cấp và căn cứ vào các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, các cam kết, thỏa thuận quốc tế được ký kết nhân danh Nhà nước, Chính phủ Việt Nam.
1./ Thời điểm tư vấn: 08/03/2019
2./ Cơ sở Pháp Luật điều chỉnh vấn đề Trách nhiệm khi tự ý sang tên tài sản chung
- Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017
3./ Luật sư trả lời Chồng tự ý sang tên đất không có sự đồng ý của vợ thì có coi là chiếm đoạt tài sản không?
Theo thông tin bạn cung cấp thì bố của bạn đã có hành vi tự ý sang tên quyền sử dụng mảnh đất thuộc tài sản chung của mẹ bạn và bố bạn sang cho một mình bố của bạn đứng tên và giờ đang có hành vi bán miếng đất đó làm tài sản riêng.
Trước tiên, theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình thì tình trạng “ly thân” không được công nhận là một trạng thái tồn tại trong mối quan hệ giữa hai bên nam-nữ trong thời kỳ hôn nhân. Nói cách khác, thông thường, việc bố của bạn và mẹ của bạn ly thân không phải căn cứ chấm dứt mối quan hệ hôn nhân của hai bố mẹ của bạn, cũng không ảnh hưởng tới việc xác lập quyền sở hữu chung với những tài sản mà hai bên đã tạo lập, duy trì, phát triển trong thời gian này.
Căn cứ Khoản 1 Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình:
“Điều 33.Tài sản chung của vợ chồng
1.Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
…”
Do đó, thông thường, việc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ đứng tên bố của bạn sẽ không phải căn cứ chấm dứt quyền sử dụng tài sản trên của mẹ của bạn. Và việc bán quyền sử dụng mảnh đất này, số tiền bán được cũng được coi là tài sản chung của hai bố, mẹ bạn.
Tuy nhiên, trong trường hợp, bố của bạn chuyển quyền sử dụng mảnh đất sang cho bản thân mà không có sự đồng ý của mẹ của bạn, mẹ của bạn có thể khởi kiện ra Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo thủ tục tố tụng dân sự sau khi bố, mẹ bạn không hòa giải được ở chính quyền địa phương.
Còn về hành vi chiếm đoạt tài sản, căn cứ Điều 174 Bộ luật hình sự quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:
“Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1.Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng … thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
…”
Thì người có hành vi bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác sẽ bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm. Trong trường hợp nhận thấy hành vi của bố của bạn đã thỏa mãn quy định này, mẹ bạn cần làm đơn trình báo tố giác việc này tới Công an xã để yêu cầu giải quyết. Sau khi nhận được đơn này, phía công an có trách nhiệm tiến hành điều tra, xác minh và có biện pháp xử lý hợp lý theo quy định của pháp luật.
Tóm lại, trong trường hợp bạn đưa ra, bạn cần xem xét xem hành vi của bố của bạn có phải là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 174 Bộ luật hình sự, nếu có, mẹ của bạn có thể làm đơn trình báo tố giác việc này tới công an xã để được giải quyết theo quy định của pháp luật.
Với những tư vấn trên, Công ty Luật LVN mong rằng đã có thể giải đáp được nhu cầu của quý khách, nếu quý khách vẫn còn chưa rõ hoặc có thông tin mới với trường hợp này, quý khách có thể liên hệ Bộ phận Tư vấn pháp luật Miễn phí số: 1900.0191 để được Luật sư hỗ trợ ngay lập tức.