Trộm xe nhưng mới chỉ dắt xe ra đến sân thì bị phát hiện

Câu hỏi của khách hàng: Trộm xe nhưng mới chỉ dắt xe ra đến sân thì bị phát hiện

Em chào các anh, chị ạ. Em có điều muốn hỏi như sau: Về tội trộm cắp tài sản (cụ thể là trộm xe máy), Nếu như đã phá khóa và vào nhà người khác để lấy trộm xe nhưng mới chỉ dắt xe từ trong nhà ra đến sân thì bị phát hiện, sau đó bỏ xe chạy luôn thì như vậy trường hợp này đang ở giai đoạn phạm tội chưa đạt đã hoàn thành hay giai đoạn tội phạm đã hoàn thành ạ?
Các anh, chị cho em xin ý kiến với ạ. Em xin cảm ơn.


Luật sư Tư vấn Hình sự – Gọi 1900.0191

Dựa trên thông tin được cung cấp và căn cứ vào các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, các cam kết, thỏa thuận quốc tế được ký kết nhân danh Nhà nước, Chính phủ Việt Nam.

1./ Thời điểm tư vấn: 21/06/2019

2./ Cơ sở Pháp Luật điều chỉnh

– Bộ Luật dân sự 2015;

3./ Luật sư trả lời

3.1. Hành vi phạm tội ở giai đoạn phạm tội nào: giai đoạn phạm tội chưa đạt đã hoàn thành hay giai đoạn tội phạm đã hoàn thành.

  • Nhận định về giai đoạn phạm tội ở tình huống trên là chưa chính xác.
  • Thứ nhất, đối với giai đoạn tội phạm đã hoàn thành dấu hiệu:

– Hành vi phạm tội thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm.

Mà theo quy định tại Điều 173 Bộ Luật Hình sự 2015 về tội trộm cắp tài sản: “1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000. 000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị xử phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm;…”

Như vậy, ở đây không thể là giai đoạn tội phạm đã hoàn thành vì Hành vi phạm tội chưa thỏa mãn đầy đủ dấu hiệu cấu thành tội trộm cắp tài sản theo quy định tại Điều 173 Bộ Luật Hình sự 2015.

  • Thứ hai, đối với giai đoạn phạm tội chưa đạt đã hoàn thành dấu hiệu:

– Người thực hiện hành vi phạm tội đã chấm dứt hành vi của mình, mà không bị ai ngăn cản.

– Người phạm tội đã thực hiện đầy đủ những hành vi mà họ cho là cần thiết để gây ra hậu quả, và tin hậu quả sẽ xảy ra. Song vì nguyên nhân khách quan mà hậu quả đó không xảy ra.

Ở đây do bị phát hiện nên người thực hiện hành vi phạm tội mới chấm dứt hành vi của mình (đó là bỏ chạy), do đó không thỏa mãn giai đoạn phạm tội chưa đạt đã hoàn thành.

 

3.2. Giai đoạn phạm tội chưa đạt và chưa hoàn thành

– Trong trường hợp trên hành vi phạm tội ở giai đoạn phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành

– Theo quy định tại Điều 15 Bộ Luật Hình sự 2015:

Điều 15. Phạm tội chưa đạt

Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội”.

Trong giai đoạn phạm tội chưa đạt có phạm tội chưa đạt hoàn thành và giai đoạn phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành. Theo đó, giai đoạn phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành có những dấu hiệu sau:

– Người phạm tội vì nguyên nhân khách quan chưa thực hiện hết các hành vi mà họ cho là cần thiết để gây ra hậu quả nêu hậu quả không xảy ra.

– Ở phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành là sự chưa đạt hoàn thành hành vi phạm tội, chưa gây ra hậu quả.

  • Ở đây người trộm xe đã thực hiện đầy đủ những hành vi mà cho là cần thiết để thực hiện hành vi trộm cắp của mình như: đột nhập vào nhà, phá khóa xe, dắt xe ra khỏi sân và với suy nghĩ tin rằng bản thân sẽ trộm được xe. Nhưng do có nguyên nhân khách quan đó là: dắt xe từ trong nhà ra đến sân thì bị phát hiện, sau đó bỏ xe chạy nên mục đích không được thực hiện. Và tội phạm đã chấm dứt hành vi của mình do nguyên nhân khách quan là bị phát hiện, bởi vậy chưa gây ra hậu quả.

 

3.3. Phạm vị trách nhiệm hình sự

Người phạm tội chưa đạt dù đã hoàn thành hay chưa hoàn thành đều phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt theo quy định của Bộ Luật Hình sự 2015. Cụ thể,

Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt (Điều 15)

Mức độ trách nhiệm hình sự

Nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì áp dụng hình phạt tù không quá 20 năm; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định. (Khoản 3 Điều 57)

Với những tư vấn trên, Công ty Luật LVN mong rằng đã có thể giải đáp được nhu cầu của quý khách, nếu quý khách vẫn còn chưa rõ hoặc có thông tin mới với trường hợp này, quý khách có thể liên hệ Bộ phận Tư vấn pháp luật Miễn phí số: 1900.0191 để được Luật sư hỗ trợ ngay lập tức.

1900.0191