Câu hỏi được gửi từ khách hàng: Em dâu có quyền hưởng tài sản mẹ để lại
Cho minh hỏi với ạ
Gia đình mẹ mình đang gặp khó khăn về nhà đất
Chả là thế này mình có một em trai lấy vợ, nhưng sau khi sinh con 4 năm mới làm giấy kết hôn. Một năm trước mẹ mình có bán đất và mua một miếng khác để ở nhưng lần này cho con trai đứng tên. Sau bà về quê thì con trai bán đất đi vì mẹ không đứng tên lên việc bán đất không liên quan tới mẹ nữa và cũng thời gian đó em dâu và em trai đã làm giấy kết hôn trước khi mua đất mới và hai vợ chồng đều đứng tên hết và bây giờ hai đứa mâu thuẫn không ở với nhau, em dâu mình đòi chia tài sản mình muốn hỏi theo pháp luật như vậy em dâu có được quyền hưởng tài sản không bạn
Mình chân thành cảm ơn
Luật sư Tư vấn Bộ luật Dân sự – Gọi 1900.0191
Dựa trên những thông tin được cung cấp và căn cứ vào các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, các cam kết, thỏa thuận quốc tế được ký kết nhân danh Nhà nước, Chính phủ Việt Nam. Chúng tôi đưa ra trả lời như sau:
1./ Thời điểm pháp lý
Ngày 19 tháng 09 năm 2018
2./ Cơ sở Pháp Luật liên quan tới vấn đề Chia tài sản chung của vợ và chồng
- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
- Luật Đất đai năm 2013
- Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình
3./ Luật sư tư vấn
Đất đai là loại tài sản bất động sản và là tài sản thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước làm đại diện chủ sở hữu. Quyền sử dụng đất của một cá nhân hay tổ chức được Nhà nước thừa nhận khi người này chứng minh được quyền sử dụng đất của mình bằng một số loại giấy tờ nhất định theo quy định của pháp luật. Nói cách khác, Nhà nước thừa nhận chủ sở hữu quyền sử dụng đất chỉ khi người này đứng tên trên những giấy tờ đó. Mà trong những giấy tờ này, giấy tờ chứng minh quan hệ sở hữu rõ nhất là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Căn cứ Khoản 16 Điều 3 Luật Đất đai:
“16.Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất. …”
Theo đó, khi cả vợ và chồng đều đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì chủ sở hữu mảnh đất đó được xác định là cả hai người. Ngoài ra ngay cả trong trường hợp chỉ có một người đứng tên mà tài sản được phát sinh trong thời kỳ hôn nhân, không chứng minh được tài sản này chỉ là tài sản riêng của người chồng thì khi tài sản này vẫn được coi là tài sản chung (trừ trường hợp hai bên vợ, chồng có thỏa thuận khác).
Việc chia tài sản chung giữa vợ và chồng được pháp luật quy định như sau:
-Thứ nhất, việc chia tài sản chung phát sinh do sự kiện ly hôn. Trong trường hợp vì ly hôn thì các tài sản chung sẽ được chia theo thỏa thuận giữa hai người hoặc do Tòa án chia khi có yêu cầu của vợ, hoặc chồng. Căn cứ Điều 7 Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP thì Tòa án sẽ chia tài sản chung theo yêu cầu dựa trên các quy định sau:
+Trường hợp không có văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng hoặc văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị Tòa án tuyên bố vô hiệu toàn bộ thì áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn;
+Trường hợp có văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng và văn bản này không bị Tòa án tuyên bố vô hiệu toàn bộ thì áp dụng các nội dung của văn bản thỏa thuận để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Đối với những vấn đề không được vợ chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng hoặc bị vô hiệu thì áp dụng các quy định tương ứng của Luật hôn nhân và gia đình để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
+Trường hợp áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn thì tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây để xác định tỷ lệ tài sản mà vợ chồng được chia:
“a)“Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng” là tình trạng về năng lực pháp luật, năng lực hành vi, sức khỏe, tài sản, khả năng lao động tạo ra thu nhập sau khi ly hôn của vợ, chồng cũng như của các thành viên khác trong gia đình mà vợ chồng có quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Bên gặp khó khăn hơn sau khi ly hôn được chia phần tài sản nhiều hơn so với bên kia hoặc được ưu tiên nhận loại tài sản để bảo đảm duy trì, ổn định cuộc sống của họ nhưng phải phù hợp với hoàn cảnh thực tế của gia đình và của vợ, chồng.
b)“Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung” là sự đóng góp về tài sản riêng, thu nhập, công việc gia đình và lao động của vợ, chồng trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Người vợ hoặc chồng ở nhà chăm sóc con, gia đình mà không đi làm được tính là lao động có thu nhập tương đương với thu nhập của chồng hoặc vợ đi làm. Bên có công sức đóng góp nhiều hơn sẽ được chia nhiều hơn.
c)“Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập” là việc chia tài sản chung của vợ chồng phải bảo đảm cho vợ, chồng đang hoạt động nghề nghiệp được tiếp tục hành nghề; cho vợ, chồng đang hoạt động sản xuất, kinh doanh được tiếp tục được sản xuất, kinh doanh để tạo thu nhập và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản chênh lệch. Việc bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và hoạt động nghề nghiệp không được ảnh hưởng đến điều kiện sống tối thiểu của vợ, chồng và con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự.
Ví dụ: Vợ chồng có tài sản chung là một chiếc ô tô người chồng đang chạy xe taxi trị giá 400 triệu đồng và một cửa hàng tạp hóa người vợ đang kinh doanh trị giá 200 triệu đồng. Khi giải quyết ly hôn và chia tài sản chung, Tòa án phải xem xét giao cửa hàng tạp hóa cho người vợ, giao xe ô tô cho người chồng để họ tiếp tục kinh doanh, tạo thu nhập. Người chồng nhận được phần giá trị tài sản lớn hơn phải thanh toán cho người vợ phần giá trị là 100 triệu đồng.
d)“Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng” là lỗi của vợ hoặc chồng vi phạm quyền, nghĩa vụ về nhân thân, tài sản của vợ chồng dẫn đến ly hôn.
Ví dụ: Trường hợp người chồng có hành vi bạo lực gia đình, không chung thủy hoặc phá tán tài sản thì khi giải quyết ly hôn Tòa án phải xem xét yếu tố lỗi của người chồng khi chia tài sản chung của vợ chồng để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của vợ và con chưa thành niên. …” (Khoản 4 Điều 7 Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP).
Ngoài ra, khi giải quyết chia tài sản khi ly hôn, Tòa án phải xem xét để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Như khi chia nhà ở là tài sản chung và là chỗ ở duy nhất của vợ chồng, trong trường hợp không chia được bằng hiện vật thì Tòa án xem xét và quyết định cho người vợ hoặc chồng trực tiếp nuôi con chưa thành niên, con bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự nhận hiện vật và thanh toán giá trị tương ứng với phần tài sản được chia cho người chồng hoặc vợ nếu người vợ hoặc chồng có yêu cầu.
Theo đó, trong trường hợp này người vợ có quyền được chia tài sản là quyền sử dụng đất khi người này có đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định.
-Thứ hai, việc chia tài sản chung được tiến hành trong thời kỳ hôn nhân. Vấn đề này được pháp luật quy định như sau:
+Theo quy định tại Khoản 1 Điều 38 Luật Hôn nhân và gia đình thì trong thời kỳ hôn nhân vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, trừ trường hợp việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu;
+Nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Và trong trường hợp vợ, chồng có yêu cầu thì Tòa án giải quyết việc chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định về nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
Nói cách khác, trong trường hợp này, vợ và chồng có thể thỏa thuận về việc chia tài sản, nếu không thỏa thuận được thì Tòa án sẽ giải quyết theo yêu cầu nhưng người vợ chắc chắn vẫn có quyền sở hữu đối với quyền sử dụng mảnh đất khi đã đứng tên trên Giấy chứng nhận của mảnh đất đó cùng chồng.
Tóm lại, dựa trên thông tin bạn cung cấp thì em dâu bạn hoàn toàn có quyền đòi chia tài sản và nếu không có những tài liệu có lợi nghiêng về một bên nhất định thì em dâu của bạn sẽ được chia một nửa số tài sản đó. Trong trường hợp không thể chia được theo quy định thì em bạn sẽ phải chi trả một nửa giá trị tài sản của mảnh đất cho em dâu của bạn.
Với những tư vấn về câu hỏi Em dâu có quyền hưởng tài sản mẹ để lại, Công ty Luật LVN mong rằng đã có thể giải đáp được nhu cầu của quý khách, nếu quý khách vẫn còn chưa rõ hoặc có thông tin mới với trường hợp trên, quý khách có thể liên hệ Bộ phận Tư vấn pháp luật Miễn phí số: 1900.0191 để được Luật sư hỗ trợ ngay lập tức.