Em có chị gái kết hôn cách đây 3 năm. Trước khi cưới chị có mua được 2 mảnh đất, 1 mảnh chị xây nhà để ở, 1 mảnh thì chị dự định để bán, giấy tờ sổ đỏ tất cả đều mang tên chị. Đó có phải là tài sản trước khi kết hôn đúng không?
Trong thời gian kết hôn, vợ chồng không hòa hợp, vợ chồng chị quyết định ly hôn. Khi kết hôn, chồng chị có 130 triệu tiền mặt có đưa cho chị, nhưng chị em cũng có khoảng 600-700triệu tiền mặt, nhưng lại không có bằng chứng chứng minh. Giờ ly hôn thì chị em sợ anh chồng sẽ nhờ người viết vài giấy nợ cho anh ta nợ tiền trong thời gian kết hôn để bắt chị phải trả. Anh ta còn yêu cầu chị em đưa cho anh ta 500tr thì anh ta mới chịu ly hôn, không thì sẽ có giấy nợ. Gia đình em bây giờ rất lo lắng, vì nếu tòa phân xử cho anh ta thắng thì tài sản của chị em chẳng phải sẽ phải chia không cho anh ta hay sao? Em xin hỏi là trường hợp của chị em thì khi ra tòa, thì sẽ được phân xử như thế nào ạ?
Gửi bởi: Nguyễn Thị Diệu
Trả lời có tính chất tham khảo
Thứ nhất, về việc xác định tài sản có trước thời kỳ hôn nhân
Theo nội dung chị trình bày thì 2 mảnh đất đều do chị mua trước khi kết hôn và đứng tên của chị. Vì vậy, căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 43 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 về tài sản riêng của vợ chồng thì “Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn;…”. Như vậy, 2 mảnh đất này là tài sản riêng của chị.
Thứ hai, về việc giải quyết tài sản khi ly hôn
Về nguyên tắc, tài sản chung của vợ, chồng được chia đôi, tài sản riêng của ai thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung. Việc nhập tài sản riêng vào tài sản chung được thực hiện theo thỏa thuận của vợ, chồng. Như vậy, chị cần xem mình có thỏa thuận nhập tài sản riêng của mình (2 mảnh đất) vào tài sản chung không.
Về nghĩa vụ liên đới (nếu có), theo quy định tại Điều 27 Luật này thì:
“1. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực hiện quy định tại khoản 1 Điều 30hoặc giao dịch khác phù hợp với quy định về đại diện tại các điều 24, 25 và 26 của Luật này.
2. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới về các nghĩa vụ quy định tại Điều 37 của Luật này“.
Theo đó, người vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình hoặc các giao dịch phù hợp với quy định về đại diện giữa vợ và chồng hoặc dựa trên quan hệ ủy quyền. Ngoài ra, vợ chồng cũng chịu trách nhiệm liên đới về các nghĩa vụ sau: nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm; nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình; nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình; nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật Dân sự thì cha mẹ phải bồi thường; nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan.
Như vậy, chị không cần lo lắng về việc chồng chị nhờ người khác viết giấy nợ vì trong trường hợp này chị không có nghĩa vụ phải liên đới chịu trách nhiệm nếu các giao dịch hoặc các nghĩa vụ đó không thuộc các trường hợp được nêu trên. Ngay cả trong trường hợp thuộc quy định của pháp luật thì Tòa án cũng sẽ căn cứ vào chứng cứ, lời khai để đánh giá, kết luận có hay không việc vay nợ; mục đích vay nợ, việc sử dụng tài sản vay nợ cho nhu cầu chung của gia đình, hay nhu cầu riêng của vợ, hoặc chồng.
Các văn bản liên quan:
Luật 52/2014/QH13 Hôn nhân và gia đình
Trả lời bởi: vietduc