Đánh giá các quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2005 về năng lực hành vi dân sự của cá nhân

Đánh giá các quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2005 về năng lực hành vi dân sự của cá nhân.

Luật Dân sự Việt Nam điều chỉnh các quan hệ pháp luật dân sự phát sinh trong xã hội. Mỗi quan hệ pháp luật dân sự phát sinh, đòi hỏi những điều kiện nhất định. Trong đó, chủ thể tham gia vào các quan hệ đó, phải có những năng lực nhất định, năng lực để cá nhân có thể tham gia vào các quan hệ pháp luật, các giao dịch cũng như để thực hiện những hành vi pháp lí của mình, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp được pháp luật dân sự bảo vệ. Do đó, có thể khẳng định, để tham gia, xác lập, thực hiện và được công nhận, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân trong các quan hệ pháp luật dân sự, thì trước hết, cá nhân đó phải có năng lực hành vi dân sự. Đây là yêu cầu cơ bản để cá nhân tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự phức tạp liên quan nhiều đến vấn đề pháp lí. Trong Bộ luật Dân sự năm 2005 hiện hành, năng lực hành vi dân sự của cá nhân được quy định từ Điều 17 đến Điều 23 của Bộ luật này.

Để hiểu rõ hơn về những quy định của pháp luật dân sự về năng lực hành vi dân sự của cá nhân, cũng như đưa ra những đánh giá của bản thân về nội dung này, em đã chọn tìm hiểu, nghiên cứu đề bài số 03: “Đánh giá các quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2005 về năng lực hành vi dân sự của cá nhân”.

I. Một số khái niệm năng lực hành vi dân sự

1. Khái niệm năng lực hành vi dân sự

Trước hết, cần hiểu năng lực hành vi là khả năng của các cá nhân hay tổ chức do pháp luật quy định, bằng các hành vi của chính mình thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý và tự chịu trách nhiệm về những hành vi ấy. Năng lực hành vi dân sự là một bộ phận cấu thành của năng lực chủ thể của cá nhân trong quan hệ pháp luật dân sự .

Như vậy, năng lực hành vi dân sự là khả năng của chủ thể do pháp luật quy định, bằng hành vi và theo ý chí của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Năng lực hành vi dân sự của chủ thể bao gồm khả năng bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền dân sự và thực hiện nghĩa vụ dân sự cụ thể; khả năng tự chịu trách nhiệm bằng tài sản về hành vi của mình, bao gồm cả hành vi hợp pháp và hành vi bất hợp pháp.

2. Khái niệm năng lực hành vi dân sự của cá nhân

Để tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự, mỗi cá nhân đều phải có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi cần thiết cho quan hệ đó. Pháp luật dân sự quy định, ngay từ khi một cá nhân được sinh ra thì họ đã có khả năng có các quyền và nghĩa vụ dân sự.

Các quyền và nghĩa vụ này của mỗi cá nhân là như nhau và chỉ chấm dứt khi người đó chết. Đây chính là năng lực pháp luật dân sự của cá nhân. Trong khi đó, năng lực hành vi dân sự là khả năng cá nhân bằng hành vi của mình để tự mình xác lập các quan hệ dân sự và thực hiện các quyền, nghĩa vụ trong quan hệ đó lại được quy định tương đối phức tạp hơn, tùy vào từng trường hợp nhất định mà năng lực hành vi dân sự của mỗi cá nhân không giống nhau.

BLDS năm 2005 đưa ra khái niệm năng lực hành vi thông qua qui định: “Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự.”[1]. Với qui định này ta có thể nhận thấy năng lực pháp luật chính là tiền đề, điều kiện để cá nhân có năng lực hành vi, còn năng lực hành vi dân sự thực chất là năng lực về ý chí, năng lực phán đoán, năng lực hành động và năng lực chịu trách nhiệm về các hành vi pháp lý của mình.

“Xét trên hai phương diện ngôn ngữ tâm, sinh lí thì năng lực hành vi lại được hiểu theo hai cách như sau: Về ngôn ngữ thì “năng lực” là điều kiện chủ quan và tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó, “hành vi” là cách xử sự, biểu hiện ra bên ngoài của một người trong một hoàn cảnh cụ thể. ở phương diện này, năng lực hành vi dân sự là khả năng nhận thể hiện xử sự và kiểm soát, làm chủ các xử sự đó của cá nhân. Về tâm, sinh lí thì năng lực hành vi dân sự cá nhân có hai yếu tố là lý trí và mong muốn chủ quan.

Trong đó, lý trí là khả năng nhận thức bằng suy luận, biểu hiện khả năng làm chủ các xử sự của mình, mong muốn chủ quan là sự theo đuổi một mục đích nhất định mà bản thân muốn hướng tới và thiên về cảm giá, tình cảm của cá nhân. Ở đây, năng lực hành vi dân sự cá nhân là sự hòa hợp giữa lý trí và mong muốn chủ quan của cá nhân khi tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự.”[2]

Xuất phát từ quan niệm chung như vậy nên BLDS Việt Nam cũng như BLDS các nước đều qui định về chế độ năng lực hành vi dựa trên cơ sở năng lực phán đoán và được xem xét dưới hai khía cạnh: năng lực xác lập giao dịch và năng lực gánh chịu trách nhiệm về hành vi của mình.

Trên cơ sở đó, BLDS Việt Nam chia năng lực hành vi dân sự của cá nhân thành các mức:

  • Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
  • Người có năng lực hành vi dân sự không đầy đủ
  • Người không có năng lực hành vi dân sự
  • Người bị mất năng lực hành vi dân sự
  • Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự

Bên cạnh đó, NLHVDS của cá nhân có những đặc điểm:

Năng lực hành vi dân sự của cá nhân do nhà nước quy định dựa trên sự phát triển về độ tuổi, khả năng nhận và làm chủ hành vi của cá nhân. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân do nhà nước quy định dựa trên sự phát triển về độ tuổi, khả năng nhận và làm chủ hành vi của cá nhân. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân chỉ có khi cá nhân đạt một độ tuổi nhất định và có thể bị mất hoặc bị hạn chế khi cá nhân còn sống.

Ngoài việc căn cứ vào độ tuổi phát triển về thể chất, sự phát triển về tinh thần cũng được pháp luật chú trọng khi quy định về mức độ của năng lực hành vi dân sự. Bởi nếu là khả năng của cá nhân thì cá nhân đó phải có khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của mình.

 Năng lực hành vi dân sự của cá nhân không bình đẳng, cá nhân khác nhau có năng lực hành vi dân sự khác nhau. Pháp luật phân chia năng lực hành vi dân sự của cá nhân thành các mức độ khác nhau căn cứ vào nhiều yếu tố dựa trên sự phát triển tâm sinh lí, khả năng nhận thức vào điều kiện hành vi thể hiện qua độ tuổi.

3. Người thành niên, chưa thành niên

Khi tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự, việc xác định năng lực hành vi dân sự của cá nhân là rất quan trọng, mà trước tiên, căn cứ để xác định đó là độ tuổi. Dựa vào độ tuổi, các nhà làm luật phân chia thành từng nhóm người khác nhau, cũng là để dựa vào đó, cho thấy họ có năng lực hành vi dân sự mà chưa cần xem xét đến vấn đề nhận thức. Điều 18 BLDS quy định : “Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa thành niên”. Theo đó, người thành niên là người có độ tuổi từ đủ mười tám tuổi trở lên và người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi.

Khái niệm trên, là cơ sở để áp dụng các thuật ngữ “người thành niên” , “ người chưa thành niên” trong các quy định được ghi nhận trong các văn bản khác nhau, điều chỉnh các mối quan hệ pháp luật dân sự. Ví dụ như: Điều 107 – Đại diện của hộ gia đình; Điều 647 – Người lập di chúc; Điều 58 – Giám hộ…..

II. Mức độ xác định, tình trạng năng lực hành vi dân sự của cá nhân

1. Năng lực hành vi dân sự đầy đủ

Điều 18 BLDS 2005 quy định: “ Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa thành niên”. Điều 19 quy định : “ Người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp quy định tại Điều 22 và Điều 23 của Bộ luật này”. Theo như phân tích ở mục 3 phần I cũng như quy định tại Điều 18 BLDS, người thành niên là người có độ tuổi từ đủ 18 tuổi. Từ đủ 18 tuổi tâm sinh lí cũng như thể chất của con người đã phát triển và hoàn thiện về mọi mặt, có thể tự mình tham gia vào các giao dịch và tự mình chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Đây là trường hợp duy nhất có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.

Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, theo quy định tại Điều 19 BLDS là người đã thành niên nhưng không thuộc vào các trường hợp mất năng lực hành vi dân sự được quy định tại Điều 22 BLDS hoặc trường hợp hạn chế năng lực hành vi dân sự được quy định tại Điều 23 BLDS. Như vậy, người thành niên không mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có đủ năng lực tham gia và tự chịu trách nhiệm về hành vi cũng như tự mình xác lập, thực hiện tất cả các quyền và nghĩa vụ dân sự của mình một cách độc lập.

Ví dụ như: A mười tám tuổi, không thuộc vào trường hợp bị mất năng lực hành vi dân sự theo quy định tại Điều 22 BLDS, cũng như hạn chế năng lực hành vi dân sự quy định tại Điều 23 BLDS. A được nhận một chiếc xe máy do B tặng cho trị giá 30 triệu đồng. A có thể bán, cho thuê hoặc thực hiện các giao dịch khác theo ý chí của mình không trái với các quy định của pháp luật đối với chiếc xe máy mà không cần phải có sự tham gia của bố mẹ mình.

2. Năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ

Như phân tích ở trên, thì người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ phải từ đủ 18 tuổi trở lên, thế nhưng, trong một số giao dịch cũng như để đảm bảo cho mỗi cá nhân thực hiện những quyền cơ bản của mình, Bộ luật Dân sự đã ghi nhận năng lực hành vi dân sự của người chưa thành niên từ đủ 6 đến dưới 18 tuổi. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi là năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ.

Ở lứa tuổi này, con người chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tâm sinh lí, chưa có khả năng nhận thức đầy đủ tính nguy hiểm, tính cần thiết cho xã hội của hành vi do mình thực hiện. Vì vậy họ chỉ có thể bằng hành vi của mình tham gia vào các giao dịch để đáp ứng nhu cầu hằng ngày của mình và phù hợp với lứa tuổi. Điều 20 BLDS quy định như sau:

1. Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi khi xác lập thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện thoe pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có quy định khác.

2.Trong trường hợp người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có tài sản riêng đảm bảo thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà không cần có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.”

Từ quy định tại Điều 20 BLDS thì NLHVDS của người chưa thành niên được phân chia ở các mức độ:

+ NLHVDS của người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi.

+ NLHVDS của người chưa thành niên từ đủ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi.

+ NLHVDS của người chưa thành niên dưới 6 tuổi.

Từ quy định trên, nhận thấy những cá nhân từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi có sự phát triển bình thường của tâm sinh lí là cá nhân có NLHVDS chưa đầy đủ. Cá nhân ở độ tuổi này là đã bắt đầu có sự nhận thức về hành vi của mình nhưng chưa đủ làm chủ và kiểm soát mọi hành vi của mình. Họ chỉ có thể nhận thức và điều khiển những hành vi trong quan hệ xã hội thông thường, nhưng lại không nhận thức và hiểu được hậu quả pháp lí do hành vi đó tạo ra.

Vì vậy, trong quan hệ pháp luật dân sự, chỉ thừa nhận họ có tư cách chủ thể khi xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự phù hợp với nhận thức và lứa tuổi hoặc những trường hợp khác do pháp luật quy định người này có thể tự mình xác lập thực hiện bằng hành vi của mình.

Ví dụ như các giao dịch liên quan đến sách vở, mua quà tặng sinh nhật… mà giá trị của những thứ đó không lớn.

Đối với người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi mà có tài sản riêng đủ để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ thì họ có thể tự mình xác lập, thực hiện các giao dịch không cần sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật. Ở độ tuổi từ đủ 15 đến dưới 18 là độ tuổi mà cá nhân đã hoàn thành chương trình trung học cơ sở, đã tích lũy được những kiến thức nhất định về kĩ năng sống, về mặt thể chất thì những người này đã có đủ sức khỏe để có thể tham gia vào những công việc phù hợp và trở thành chủ thể của một số quan hệ pháp luật.

Vì thế, pháp luật quy định cho những người này có quyền tham gia vào các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của mình. Ví dụ như: H mười sáu tuổi được thừa kế 100 triệu đồng từ ông nội mình. H sử dụng một phần tiền đó để mua điện thoại di động trị giá 15 triệu đồng mà không cần sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật là bố mẹ H nhưng giao dịch này vẫn có hiệu lực.

3. Không có năng lực hành vi dân sự

BLDS năm 2005 quy định về người không có NLHVDS tại Điều 21 như sau: “Người chưa đủ sáu tuổi không có năng lực hành vi dân sự. Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện”.

Quy định trên xác định mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân chưa đủ 6 tuổi. Theo đó, với người chưa đủ 6 tuổi thì không có năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Tức là, cá nhân có độ tuổi chưa đủ 6 tuổi thì không thể tự mình xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự bằng hành vi của chính mình.

Tuy nhiên, cần hiểu rằng họ không có năng lực hành vi dân sự, còn họ vẫn hoàn toàn có năng lực pháp luật dân sự. Nghĩa là họ vẫn hoàn toàn có các quyền và nghĩa vụ dân sự được quy định trong nội dung năng lực cá nhân. Do đó, đối với các giao dịch dân sự của người dưới 6 tuổi không có năng lực hành vi dân sự thì cần phải được xác lập thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của cá nhân đó.

Ví dụ như: A năm tuổi, dùng tiền lì xì của mình đi mua sách. Nhưng khi mua sách, thì bố mẹ của A là người thay A xác lập thực hiện giao dịch này, tức là thay A trả tiền cho cửa hàng bán cuốn sách đó, vì A không có năng lực hành vi dân sự để tham gia vào các quan hệ pháp luật theo quy định tại Điều 21 BLDS.

4. Mất năng lực hành vi dân sự

Mất NLHVDS là một người nào đó đã có NLHVDS nhưng vì một lí do nào đó mà NLHVDS của người đó không còn nữa. Người bị mất NLHVDS là người không thể bằng nhận thức của mình làm chủ, kiểm soát hành vi của mình. Rơi vào tình trạng này bao gồm những người không có khả năng nhận thức khi chưa thành niên và những người thành niên đã có NLHVDS nhưng bị Tòa án tuyên bố là mất NLHVDS được quy định tại Điều 22 BLDS như sau :

1. Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định.

Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự.

2. Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.”

Cũng như người không có NLHVDS, người bị mất NLHVDS cũng không có khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của mình. Theo quy định trên, cá nhân được xác định là mất NLHVDS khi có các yếu tố : người đó mắc bệnh liên quan đến tâm thần (bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ hành vi của mình); có yêu cầu của người có quyền và lợi ích liên quan; có kết luận của của tổ chức giám định về tình trạng bệnh của cá nhân; và có quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án (Tòa án ra quyết định tuyên bố cá nhân mất NLHVDS trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định về tình trạng bệnh của cá nhân đó). Khi cá nhân bị tuyên bố mất NLHVDS thì hậu quả pháp lí cũng giống như người không có NLHVDS, họ không thể tự mình xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự trong các quan hệ pháp luật dân sự. Mất NLHVDS không phải là một mức độ NLHVDS mà là một tình trạng của NLHVDS của cá nhân trong một khoảng thờ gian nhất định, khi cá nhân bị mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm ảnh hưởng đến khả năng nhận thức và làm chủ hành vi.

Do đó, những người rơi vào tình trạng này không thể tự mình xác lập, thực hiện bất kỳ GDDS nào. Mọi GDDS liên quan đến nhu cầu của họ đều phải do người đại diện theo pháp luật của họ thực hiện. Ví dụ như: A năm nay 19 tuổi bị mắc bệnh tâm thần. Bệnh tâm thần khiến A mất đi khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, bố mẹ A yêu cầu Tòa án tuyên bố A mất NLHVDS, sau khi có giám định của tổ chức giám định, Tòa án tuyên bố A mất NLHVDS. Mọi giao dịch liên quan đến nhu cầu của A như ăn uống, chữa bệnh,.. đều do bố mẹ A thực hiện.

5. Hạn chế năng lực hành vi dân sự

Trước hết, cần phân định sự khác biệt giữa hai cụm từ “NLHVDS hạn chế” và “ NLHVDS bị hạn chế”. Cụm từ “NLHVDS hạn chế” dùng để chỉ những người đã có NLHVDS nhưng chưa đầy đủ đối với trường hợp người chưa thành niên từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi có sự phát triển bình thường về nhận thức. Còn “NLHVDS bị hạn chế” dùng để chỉ những người đã thành niên đã có NLHVDS đầy đủ nhưng vì một lí do nào đó bị Tòa án ra quyết định tuyên bố là người có NLHVDS bị hạn chế. Các trường hợp NLHVDS bị hạn chế và các quy định khác về người có NLHVDS bị hạn chế được quy định tại Điều 23 của BLDS như sau:

1. Người nghiện ma tuý, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan, Toà án có thể ra quyết định tuyên bố là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

2. Người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện do Toà án quyết định. Giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày.

3. Khi không còn căn cứ tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan, Toà án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự”.

Theo quy định trên, thì người có NLHVDS bị hạn chế phải là người nghiện ma túy, hoặc nghiện các chất kích thích khác ảnh hưởng tới khả năng nhận thức và khả năng làm chủ hành vi của mình. Nhưng việc nghiện ma túy hay các chất kích thích đó phải dẫn tới hậu quả về tài sản là phá tán tài sản gia đình. Do đó, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho những người có liên quan, thì Tòa án ra quyết định có hiệu lực tuyên bố người đó bị hạn chế NLHVDS theo yêu cầu của những người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan.

Kể từ thời điểm Tòa án ra quyết định tuyên bố cá nhân bị hạn chế NLHVDS có hiệu lực cho đến có quyết định hủy bỏ tuyên bố đó theo quy định tại khoản 3 Điều 23 BLDS thì cá nhân được xác định là hạn chế NLHVDS sẽ có người đại diện theo pháp luật, và cá nhân đó không thể tự mình xác lập, thực hiện các GDDS, ngoại trừ các giao dịch nhỏ nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt của bản thân. Khi muốn tham gia vào các giao dịch khác, thì người bị hạn chế NLHVDS phải được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật của mình. Quy định này có ý nghĩa quan trọng về mặt xã hội, đảm bảo trật tự xã hội được duy trì, giúp những người thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 23 BLDS có trách nhiệm với gia đình, xã hội hơn.

Ví dụ như: K hai mươi tuổi, do bạn bè rủ rê, K đã nghiện ma túy. Để có tiền mua thuốc, K đã bán đồ đạc trong nhà trong đó có chiếc xe máy của mình do bố mẹ mua cho để thỏa mãn cơn nghiện. Theo yêu cầu của bố mẹ K, Tòa án ra quyết định tuyên bố K bị hạn chế NLHVDS. Do đó, theo quy định tại Điều 23 BLDS thì K không thể tự mình xác lập, thực hiện các GDDS, mà phải thông qua sự đồng ý của bố mẹ, trừ những giao dịch phục vụ nhu cầu của bạn thân như ăn uống, học tập….

III. Đánh giá các quy định của BLDS năm 2005 về năng lực hành vi dân sự cá nhân

1. So sánh các quy định về năng lực hành vi dân sự của cá nhân trong BLDS năm 2005 với BLDS năm 1995

Những quy định về NLHVDS của cá nhân được quy định tại BLDS năm 2005 cơ bản kế thừa và phát huy tinh thần của các quy định về NLHVDS cá nhân trong BLDS năm 1995. NLHVDS của cá nhân được quy định từ Điều 19 tới Điều 25 BLDS năm 1995. Trong đó các quy định tại Điều 17, Điều 18, Điều 21, Điều 23 BLDS năm 2005 được giữ nguyên từ các quy định tại Điều 19, Điều 20, Điều 23, Điều 25 BLDS năm 1995, cho thấy, về cơ bản các nhà làm luật vẫn công nhận NLHVDS cúa cá nhân là việc cá nhân đó bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trong các quan hệ pháp luật dân sự; và thừa nhận quan điểm về người chưa thành niên và người thành niên.

Điều 22 BLDS năm 1995 quy định về “Năng lực hành vi dân sự của người chưa thành niên từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi” như sau:

“1. Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi khi xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.

2.Trong trường hợp người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có tài sản riêng đủ để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ, thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà không đòi hỏi phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.”  

So với Điều 20 BLDS năm 2005, thì Điều 20 có sửa đổi bổ sung thêm cụm từ “hoặc pháp luật có quy định khác” tại khoản 1 và về việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự của người từ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi thì “cần phải” thay từ “phải” trong quy định tại Điều 22 BLDS năm 1995.

Qua đây ta thấy, BLDS năm 2005 quy định cụ thể hơn, rõ ràng hơn và có phần mở rộng hơn, điều này giúp cho việc áp dụng thực tiễn được thuận lợi và tránh những bất cập do thiếu xót hay luật không quy định. Ngoài ra, BLDS 2005 nhấn mạnh hơn về việc khi người không có NLHVDS từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự mà không đòi hỏi cần phải có sự đồng ý, thông qua của người đại diện theo pháp luật của người đó, trừ những trường hợp pháp luật có quy định khác.

Ngoài ra, khoản 2 Điều 24 BLDS năm 1995 được sửa đổi, bổ sung thành khoản 2 Điều 22 BLDS năm 2005. Theo đó, các nhà làm luật đã thêm từ “phải” khi quy định việc xác lập, thực hiện các giao dịch của người mất NLHVDS, qua đây cũng nhấn mạnh hơn về vai trò của người đại diện theo pháp luật của người mất NLHVDS, cũng như quy định chặt chẽ hơn về vấn đề xác lập thực hiện các GDDS đối với những người này.

2. Đánh giá các quy định về năng lực hành vi dân sự của cá nhân trong BLDS năm 2005

“Bộ luật dân sự 2005 (được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2006) ra đời trong bối cảnh đất nước đổi mới được gần 20 năm, thay thế cho Bộ luật dân sự 1995 đã bị lạc hậu so với sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động kinh tế và các giao lưu trong đời sống xã hội sau khi công cuộc đổi mới được phát động năm 1986 đã thúc đẩy một cách mạnh mẽ đòi hỏi phải có một BLDS mới đáp ứng yêu cầu của thực tiễn”[3]. Nhìn chung, qua 10 năm thi hành, BLDS 2005 đã có tác động rất tích cực vào sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước nói chung và trong hoạt động của ngành Tòa án nói riêng.

Các nội dung quy định về NLHVDS của cá nhân trong BLDS là tiền đề để cá nhân xác lập, thực hiện các GDDS, tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự cũng như làm căn cứ để giải quyết các tranh chấp có liên quan tới NLHVDS của cá nhân trong hoạt động của Tòa án. Bên cạnh đó, các quy định về NLHVDS còn có những ý nghĩa quan trọng liên quan đến cá nhân, gia đình và xã hội. Như trong Điều 23 về hạn chế NLHVDS, quy định này có ý nghĩa to lớn về mặt xã hội, đặc biệt nó có tác dụng sâu sắc trong việc phòng chống các tệ nạn xã hội.

Việc áp dụng quy định này, thông qua Toà án sẽ tác động mạnh mẽ đến những người vô trách nhiệm với gia đình và xã hội. Hay Điều 20 BLDS ghi nhận NLHVDS của người chưa thành niên từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi, quy định tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân khi có tài sản đủ để đảm bảo thực hiện, có thể chủ động, độc lập xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự mà không phụ thuộc vào người đại diện, tạo sự đồng bộ giữa các ngành luật trong hệ thống pháp luật của nước ta, góp phần thúc đẩy giao lưu dân sự.

Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực nêu trên của BLDS năm 2005 về NLHVDS của cá nhân, trong quá trình áp dụng, BLDS đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập nhất định. Việc nghiên cứu làm rõ một số hạn chế, bất cập, qua đó, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung BLDS có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn hiện nay.

Những bất cập, hạn chế của quy định về NLHVDS của cá nhân hiện nay:

+ Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: Chủ thể cá nhân tham gia quan hệ pháp luật dân sự phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự. Yếu tố năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là điều đương nhiên, về cơ bản không có vấn đề gì cần phải quan tâm xem xét. Nhưng năng lực hành vi dân sự của cá nhân thì còn rất nhiều điểm bất hợp lý. 

Vấn đề bất hợp lý lớn nhất là, Điều 9 về “Điều kiện kết hôn”, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 lại quy định, nữ chỉ cần “từ” 18 tuổi trở lên, tức là chưa thành niên, chưa có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, lại đã được phép kết hôn.

Ngoài ra, Bộ luật Dân sự còn thiếu hẳn những quy định về các trường hợp người đã thành niên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự do bệnh tật hoặc nhược điểm vể thế chất, tinh thần, nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự. Và còn bỏ ngỏ việc quy định năng lực hành vi của người chưa thành niên từ đủ 9 tuổi trở lên (để làm căn cứ pháp lý cho các trường hợp quy định trong 6 điều tại Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000) và từ đủ 14 tuổi trở lên (để làm căn cứ pháp lý cho các trường hợp quy định về cấp Chứng minh nhân dân theo Nghị định số 05/1999/NĐ-CP; chịu trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự năm 1999; quản lý, định đoạt tài sản riêng của con theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; bị bắt, tạm giữ, tạm giam theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003; khai báo việc lưu trú theo Luật Cư trú năm 2006; xác minh về nhân thân theo Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008; bị xử phạt vi phạm hành chính theo Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012; học nghề, tập nghề theo Bộ luật Lao động năm 2012.

Mặc dù trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã có sự sửa đổi trong  những bất cập có liên quan đến lĩnh vực hôn nhân, nhưng có thể thấy, trong một thời gian dài, bất cập này đã xảy ra, và gây ra nhiều tranh cãi khi có những vụ việc pháp lí phát sinh liên quan đến nó. Nhưng những bất cập ảnh hưởng tới các lĩnh vực khác vẫn là bất cập, hạn chế cần khắc phụ.

+ Quy định tại khoản 1 Điều 20 đặt ra một số vấn đề bất cập như sau: Những trường hợp GDDS của người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi chưa được xác lập, thực hiện bằng hành vi của mình, thì các giao dịch đó cần được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật của người đó. Quy định này không rõ ràng, có thể hiểu theo nhiều cách hiểu khác nhau dẫn tới việc áp dụng pháp luật theo các cách không giống nhau, gây ra sự thiếu đồng bộ.

Cụ thể như sau: Thứ nhất, có thể hiểu là các giao dịch dân sự chỉ cần có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật còn việc xác lập và thực hiện giao dịch là hành vi của cá nhân từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi. Nếu hiểu theo cách này thì việc xác định người đại diện có đồng ý hay không là rất khó, nhất là đối với các giao dịch được xác lập bằng miệng. Ví dụ như: A mười một tuổi dùng tiền tiết kiệm của mình để đi mua điện thoại di động trị giá 3 triệu đồng. A hỏi bố mẹ, và được sự đồng ý của bố mẹ rồi mới đi mua.

Như vậy, trong trường hợp này, nếu xảy ra khúc mắc trong việc mua bán điện thoại, thì rất khó để giải quyết, vì việc xác nhận A có được bố mẹ đồng ý cho thực hiện hành vi hay không là rất khó chứng minh.

Thứ hai, có thể hiểu việc người đại diện đồng ý tức là người đại diện bằng hành vi của mình xác lập và thực hiện giao dịch đó. Cách hiểu này có vẻ hợp lý hơn khi căn cứ vào khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của người đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi, khi những người này chưa đủ điều kiện tham gia vào các giao dịch dân sự trên thực tế. Việc người đại diện tham gia vào giao dịch sẽ đảm bảo quyền lợi cho họ và cho các chủ thể khác trong quan hệ pháp luật dân sự.

Tuy nhiên, nếu hiểu theo nghĩa này, thì việc áp dụng thực tế sẽ không phù hợp, vì khi ở độ tuổi từ mười lăm tuổi đến dưới mười tám tuổi, thời gian cũng như việc xác lập giao dịch diễn ra chủ yếu trong thời gian người đó tới trường học, cho nên cha mẹ sẽ rất khó để xác lập giao dịch thay cho con mình được.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 20 này, có thể hiểu là pháp luật chỉ công nhận những GDDS trong phạm vi tài sản riêng của người từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi xác lập, thực hiện bằng hành vi của mình, còn những giao dịch khác thì người này vẫn phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật ví dụ như học nghề, hay giao kết hợp đồng lao động…

+ Về người không có NLHVDS, trước hết Điều 21 BLDS quy định “người chưa đủ sáu tuổi là người không có NLHVDS”. Về mặt thực tế, thì người dưới sáu tuổi là những người chưa đủ nhận thức và chịu trách nhiệm về hành vi của mình, hành vi của những người này vẫn mang tính bản năng, phản xã chứ không theo ý chí, lý trí. Điều này là do sự chưa phát triển về mặt lí trí và ý chí chứ không phải những người này không có khả năng nhận thức theo ý chí và lí trí.

Lứa tuổi dưới sáu tuổi cũng đã có khả năng nhận thức được thế giới xung quanh, khả năng này sẽ dần dần phát triển khi họ lớn lên thông qua tiếp xúc giao tiếp với thế giới xung quanh, từ đó, khả năng nhận thức theo ý chí và lí trí sẽ dần hoàn thiện cũng như NLHVDS của họ cũng dần hoàn thiện hơn. Bên cạnh đó, về mặt pháp lí, pháp luật cũng thừa nhận rằng, NLHVDS hoàn thiện dần theo độ tuổi, khả năng nhận thức của người đó.

Do đó, không thể nói người dưới sáu tuổi không có NLHVDS được mà cần phải ghi nhận họ là người chưa có NLHVDS. Thuật ngữ “ chưa có” và “ không có” là hoàn toàn khác nhau, vì “chưa có” là có thể hoàn thiện, nâng cao, phát triển dần theo độ tuổi, khả năng nhận thức sẽ dần tăng lên và hoàn thiện hơn, còn “không có” là tình trạng không có NLHVDS và khả năng sẽ có NLHVDS là không xảy ra.

Còn đối với người dưới sáu tuổi, thì ở thời điểm dưới sáu tuổi thì họ không có NLHVDS nhưng có thể sẽ có trong tương lai. Nếu người dưới sáu tuổi bị mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác mà không có năng lực nhận thức thì mới được coi là không có NLHVDS. Qua đây, cho thấy sự hạn chế trong kĩ thuật lập pháp của BLDS năm 2005 khi sử dụng từ ngữ, cần có sự xem xét phân tích kĩ lưỡng trước khi sử dụng từ ngữ luật pháp, vì một từ dùng sai có thể đưa ra nhiều cách hiểu khác nhau.

Bên cạnh đó, cách quy định tại Điều 23 này còn tạo ra hai cách hiểu khác nhau:

Cách hiểu thứ nhất: Người dưới sáu tuổi xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự chính là việc xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự, để những giao dịch này có hiệu lực thì cần phải thông qua hành vi của người đại diện theo pháp luật của họ. Cách hiểu này rõ ràng không chính xác, không bao quát được hết các trường hợp phát sinh quyền và nghĩa vụ của người dưới sáu tuổi, nhưng có một câu hỏi được đặt ra là “trong những trường hợp quyền và nghĩa vụ dân sự phát sinh từ những căn cứ không phải là giao dịch dân sự thì những người chưa đủ sáu tuổi sẽ tham gia theo phương thức nào?”[4].

Cách hiểu thứ hai: Người chưa đủ sáu tuổi thì không thể xác lập, thực hiện những quyền và nghĩa vụ dân sự phát sinh từ những căn cứ khác với giao dịch dân sự. Có thể hiểu là họ chỉ có những quyền và nghĩa vụ dân sự này theo năng lực pháp luật dân sự chứ không thể thể xác lập, thực hiện chúng trên thực tế khi chưa đủ sáu tuổi, kể cả thông qua hành vi của người đại diện theo pháp luật. Cách hiểu này hiển nhiên không chính xác và đi ngược lại với ý nghĩa của các quy định về năng lực pháp luật dân sự cá nhân mà BLDS đã quy định. Như vậy, Điều 21 cần sửa đổi để phù hợp với các quy định khác về năng lực pháp luật dân sự và NLHVDS của cá nhân.

+ Tình trạng mất NLHVDS được quy định tại Điều 22 BLDS năm 2005 có điểm bất cập, bất hợp lí ở thủ tục khôi phục NLHVDS sau khi căn cứ tuyên bố cá nhân mất NLHVDS không còn, đó là quy định người có quyền yêu cầu Tòa án hủy quyết định tuyên bố mất NLHVDS có thể chính là người đang bị tuyên bố mất NLHVDS.

Tuy nhiên, rõ ràng khi yêu cầu Tòa án hủy quyết định quyết định tuyên bố mất NLHVDS thì quyết định tuyên bố mất NLHVDS của người bị tuyên bố mất NLHVDS đó vẫn còn hiệu lực, người đó không thể xác lập, thực hiện các GDDS nói riêng và các QHPLDS nói chung bằng hành vi của mình một cách độc lập. Do đó, người đó không thể tự mình yêu cầu Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố mất NLHVDS của cá nhân đối với mình được.

Bên cạnh đó, về hậu quả pháp lí của NLHVDS đối với người mất NLHVDS chỉ quy định trong việc xác lập, thực hiện các GDDS được thông qua hành vi của người địa diện theo pháp luật. Như vậy, sẽ không bao trùm hết nội hàm của các căn cứ phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự. Hay nói cash khác, BLDS năm 2005 chỉ dừng lại ở việc quy định về hạn chế tham gia giao dịch, còn các hành vi khác không quy định đến. Ví dụ như : các quyền về tài sản như quyền quản lí tài sản, quyền đòi tài sản do người khác chiếm giữ không có căn cứ pháp luật,… Do đó, đây là điểm cần sửa đổi khi soạn thảo, ban hành Bộ luật mới.

+ Quy định về hạn chế NLHVDS cũng có một số điểm hạn chế như sau: Điều 23 BLDS ghi nhận, nghiện chất kích thích là điều kiện cơ bản để xác định tình trạng hạn chế NLHVDS của cá nhân. Tuy nhiên, BLDS lại không có bất cứ quy định nào xác định, liệt kê hoặc nêu ra khái niệm về chất kích thích là những chất nào. Điều này làm dẫn tới hậu quả là việc cá nhân bị tuyên bố bị hạn chế NLHVDS mà có thể không có cơ sở pháp lí rõ ràng.

Bên cạnh đó, nếu như ở Điều 22 BLDS quy định khi tuyên bố cá nhân bị mất NLHVDS thì Tòa án “ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định” , nhưng với trường hợp hạn chế NLHVDS quy định tại Điều 23 BLDS thì việc tuyên bố chỉ phụ thuộc vào yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan và quyết định của Tòa án.

Do đó, việc không quy định rõ thế nào là chất kích thích cũng như việc không cần tới sự kết luận của cơ quan, tổ chức chuyên môn y tế sẽ dẫn tới sự chủ quan, duy ý chí của những người có quyền yêu cầu và của Tòa án. Quyết định của Tòa án sẽ phụ thuộc hoàn toàn vào nhận định chủ quan của người tiến hành tố tụng, đồng thời quy định này là cơ sở dẫn tới những quyết định khác nhau của các Tòa án khác nhau về những cá nhân có mức độ nghiện và phá tán tài sản trên thực tế tương tự nhau.

3. Đề xuất sửa đổi các quy định về năng lực hành vi dân sự của cá nhân

Qua những phân tích ở trên, có thể thấy, các quy định về NLHVDS của cá nhân có những điểm bất cập, hạn chế cần phải sửa đổi, thay đổi. Trước tiên, cần cải thiện, nâng cao kĩ thuật lập pháp để những quy định được đưa ra phù hợp với thực tiễn đời sống và thể hiện đúng tinh thần của pháp luật Việt Nam. Các từ ngữ được sử dụng cần được phần tích, xem xét kĩ lưỡng. Có thể thay đổi quy định về “không có năng lực hành vi dân sự” thành “  người chưa có năng lưc hành vi dân sự” đối với người dưới sáu tuổi hoặc quy định khác phù hợp và đáp ứng các quyền và nghĩa vụ dân sự mà người dưới sáu tuổi được hưởng.

Bộ luật Dân sự mới cần quy định rõ ràng hơn, nhằm đưa ra các cách hiểu đúng cho các trường hợp năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ, mất và hạn chế NLHVDS của cá nhân. Trong đó, cần quy định rõ ràng về việc người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện các giao dịch cho cá nhân trong những trường hợp đó, đồng thời mở rộng các quy định hơn để tránh thiếu xót khi BLDS năm 2005 chỉ nói đến việc người đại diện theo pháp luật của cá nhân xác lập, thực hiện thay cho cá nhân chỉ trong các GDDS như quy định tại Điều 20, Điều 21, Điều 23 BLDS.

Bên cạnh đó, cần có thêm quy định về nghiện chất kích thích, và thêm quy định về việc giám định tình trạng NLHVDS của cá nhân trước khi tuyên bố người đó bị hạn chế NLHVDS. Có thể quy định rõ chất kích thích là gì, bao gồm những loại nào. Ví dụ như, các loại Amphetamine, thuốc lắc, Cocaine, Một số thuốc chống trầm cảmthuốc chống tiết Acetylcholine,…. Để có sự đồng bộ trong các quyết định của Tòa án đối với các trường hợp tương tự nhau, thì cần có sự quy định rõ ràng, về điều kiện cũng như căn cứ cơ sở để ra các quyết định đối với cá nhân trong tình trạng bị hạn chế NLHVDS. Qua đây, vừa đảm bảo công minh, rõ ràng, vừa thể hiện kĩ thuật lập pháp cũng như để pháp luật được áp dụng một cách có hiệu quả.

Qua những phân tích, lập luận, đánh giá về năng lực hành vi dân sự cá nhân trên đây, có thể thấy, những quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 đã có những tích cực, tuy nhiên nó vẫn còn nhiều điểm hạn chế, bất cập trong áp dụng và không phù hợp với thực tiễn đời sống. Điều đó, cho thấy những thiếu xót trong hoạt động lập pháp cũng như kĩ thuật lập pháp của chúng ta chưa cao.

Ngoài ra, từ đây, ta cần nhìn nhận thực trạng pháp luật chưa hoàn thiện và chưa đáp ứng với tình hình đất nước, cũng như chưa đáp ứng được các quyền và nghĩa vụ của cá nhân khi tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự. Sau 10 năm thi hành, các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 nói chung và các quy định về năng lực hành vi dân sự của cá nhân nói chung đã, và đang bộc lộ nhiều thiếu xót cần phải khắc phục, sửa đổi, hoàn thiện.

Bên cạnh đó cũng cần phát huy những điểm tích cực mà Bộ luật này đã đạt được trong thời gian qua. Như vậy, với cá nhân khi tham gia vào một quan hệ pháp luật dân sự, thì việc xác định năng lực hành vi dân sự của cá nhân đó là hết sức quan trọng. Từ đó, người ta mới xét đến các quyền và nghĩa vụ dân sự mà cá nhân đó được hưởng và thực hiện như thế nào.

TRÍCH DẪN TÀI LIỆU

[1] Điều 17 Bộ luật Dân sự năm 2005

[2] Trang 37, Năng lực chủ thể của cá nhân trong giao dịch dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005: Luận văn thạc sĩ luật học/Nguyễn Thị Thanh Thảo, Tiến sĩ Trần Thị Huệ hướng dẫn, Hà Nội, 2013.

[3] Những bất cập của Bộ luật Dân sự cần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, Trang toaan.gov.vn của Tòa án Nhân dân tối cao.

[4] Trang 47, Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb.Tư pháp, Hà Nội, 2014.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, Tập 1, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2014.
  2. Lê Đình Nghị (chủ biên), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, Tập 1, Nxb.Giáo dục, Hà Nội, 2009.
  3. Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb.Tư pháp, Hà Nội, 2014.
  4. Bộ Luật Dân sự năm 2005.
  5. Bộ luật Dân sự năm 1995.
  6. Luận văn thạc sĩ luật học/Nguyễn Thị Thanh Thảo, Tiến sĩ Trần Thị Huệ hướng dẫn, Năng lực chủ thể của cá nhân trong giao dịch dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005, Hà Nội, 2013.
  7. Những bất cập của Bộ luật Dân sự cần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, Trang toaan.gov.vn của Tòa án Nhân dân tối cao.

BẢNG KÍ TỰ VIẾT TẮT

NLHVDS : Năng lực hành vi dân sự.

GDDS  : Giao dịch dân sự.

QHPLDS : Quan hệ pháp luật dân sự.

BLDS : Bộ luật Dân sự.

Tham khảo bài viết tương tự:

1900.0191