Dịch vụ logistics bao gồm chuỗi các dịch vụ – Khái quát Bình luận Thực trạng

Đề tài: Bình luận về quan điểm “Dịch vụ logistics bao gồm chuỗi các dịch vụ”.

Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự hỗ trợ đắc lực của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế giới, khối lượng hàng hóa và sản phẩm vật chất được sản xuất ra ngày càng nhiều. Do khoảng cách trong các lĩnh vực cạnh tranh truyền thống như chất lượng hàng hóa hay giá cả ngày càng thu hẹp, các nhà sản xuất đã chuyển sang cạnh tranh về quản lý hàng tồn kho, tốc độ giao hàng, hợp lý hóa quá trình lưu chuyển nguyên nhiên vật liệu và bán thành phẩm, … trong cả hệ thống quản lý phân phối vật chất của doanh nghiệp. Logistics xuất hiện như một ngành dịch vụ quan trọng trong cơ cấu tổng thể nền kinh tế quốc dân, đóng vai trò hỗ trợ, kết nối và thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của cả nước cũng như từng địa phương, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.

“Dịch vụ logistics bao gồm chuỗi các dịch vụ”. Anh/chị bình luận ý kiến trên.”

CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ DỊCH VỤ LOGISTICS

1. Khái niệm thuật ngữ Logistics

Logistics là nguồn gốc từ công tác hậu cần nhằm phục vụ và duy trì hoạt động của quân đội, tuy nhiên với sự phát triển của nền kinh tế, logistics ngày càng được áp dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế trên phạm vi toàn cầu nhằm giải quyết bài toán hiệu quả kinh tế khi nhu cầu con người ngày càng tăng nhưng nguồn tài nguyên, nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất lại có giới hạn. Để hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả tối ưu cần phải sản xuất ra nhiều sản phẩm nhất với chất lượng tốt nhất, chi phí thấp nhất. Trước yêu cầu đó, loại hình dịch vụ này đã và đang được phát triển mạnh ở các nước có nền kinh tế phát triển. Những năm gần đây, dịch vụ logistics bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam.

Theo quy định tại Điều 233 Luật thương mại 2005, dịch vụ logistics là thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hóa theo thỏa thuận với khách hàng để hưởng thù lao.

Ở mức độ khái quát nhất, logistics được hiểu là việc thực hiện và kiểm soát toàn bộ hàng hóa cùng những thông tin có liên quan từ nơi hình thành nên hàng hóa cho đến điểm tiêu thụ cuối cùng. Có thể xem logistics “là quá trình tối ưu hóa về giá trị và thời gian vận chuyển và lưu trữ nguồn tài nguyên từ điểm ban đầu là người cung ứng, qua nhà sản xuất, đến tay người tiêu dùng thông qua hàng loạt các hoạt động kinh tế”. Như vậy, logistics là một hoạt động mang tính chất dây chuyền; hiệu quả của quá trình này có tầm quan trọng quyết định đến tính cạnh tranh của các ngành công nghiệp và thương mại mỗi quốc gia. Theo quy định của Điều 233 Luật thương mại 2005, thương nhân chỉ cần thực hiện một trong các hành vi quy định tại điều này đã là thực hiện dịch vụ logistics.

2. Đặc điểm pháp lý của dịch vụ logistics

Dịch vụ logistics được điều chỉnh bởi LTM 2005 có những đặc điểm chính sau đây:

Thứ nhất, nội dung của dịch vụ logistics bao gồm nhiều công việc khác nhau liên quan đến sự dịch chuyển của hàng hóa.

Trong nhóm dịch vụ logistics chủ yếu, các công việc này có thể bao gồm các hoạt động sau: bốc xếp hàng hóa, dịch vụ kho bãi và lưu giữ hàng hóa, bao gồm cả hoạt động kinh doanh kho bãi ,container và kho xử lý nguyên liệu, thiết bị, dịch vụ đại lý vận tải, bao gồm cả hoạt động đại lý làm thủ tục hải quan và lập kế hoạch bốc dỡ hàng hóa và các dịch vụ bổ trợ khác, bao gồm cả hoạt động tiếp nhận, lưu kho và quản lý thông tin liên quan đến vận chuyển và lưu kho hàng hóa trong suốt cả chuỗi logistics, hoạt động xử lý lại hàng hóa bị khách hàng trả lại, hàng hóa tồn kho, hàng hóa quá hạn, lỗi mốt và tái phân phối hàng hóa đó; hoạt động cho thuê và thuê mua container. Trong nhóm dịch vụ logistics liên quan đến vận tải, các hoạt động này bao gồm vận tải hàng không, vận tải hàng hải, vận tải đường sắt, vận tải đường bộ… Nhóm các dịch vụ logistics liên quan khác bao gồm đa dạng các hoạt động như: kiểm tra và phân tích kỹ thuật; dịch vụ bưu chính; dịch vụ thương mại bán buôn, dịch vụ thương mại bán lẻ và các dịch vụ hỗ trợ vận tải khác.

Thứ hai, chủ thể cung ứng dịch vụ logistics là những thương nhân kinh doanh các dịch vụ cụ thể chuỗi dịch vụ logistics. Theo quy định của pháp hiện hành, nhiều hoạt động trong chuỗi hoạt động logistics là hoạt động thuộc các lĩnh vực kinh doanh có điều kiện. Ví dụ như đối với dịch vụ logistics liên quan đến vận tải như vận tải hàng không, vận tải đường biển, vận tải đường sắt…

Thứ ba, dịch vụ logistics góp phần làm gia tăng giá trị của hàng hóa và góp phần thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng hàng hóa. Tuy nhiên, dịch vụ logistics là một dịch vụ đặc thù, theo đó thương nhân kinh doanh dịch vụ này không thể can thiệp vào chất lượng của hàng hóa là đối tượng tác động của dịch vụ. Đồng thời đây cũng là một loại hình dịch vụ có độ rủi ro cao do hàng hóa trong quá trình dịch chuyển có thể được quản lý bởi bên thứ ba và chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố khách quan. Chính vì vậy luật pháp thường có những quy định nhằm mục đích miễn hoặc giới hạn trách nhiệm cho các thương nhân kinh doanh dịch vụ đặc thù này, đặc biệt là đối với dịch vụ logistics có liên quan đến vận tải.

Thứ tư, dịch vụ logistics được thực hiện trên cơ sở hợp đồng song vụ có tính đền bù. Tùy thuộc vào mức độ sử dụng dịch vụ của khách hàng, nội dung hợp đồng có thể đơn giản hoặc phức tạp. Theo pháp luật Việt Nam, tại điều 513 Bộ luật Dân sự năm 2015: Hợp đồng dịch vụ là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc cho bên sử dụng dịch vụ, bên sử dụng dịch vụ phải trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ. Đối tượng của hợp đồng dịch vụ là một công việc cụ thể, không trái pháp luật và đạo đức xã hội.

Các hợp đồng dịch vụ logistics là các dịch vụ thuê ngoài bên thứ ba (third party outsourcing), tập trung giúp công ty quản lý tài nguyên, tiết kiệm chi phí. Những công ty thực hiện hợp đồng dịch vụ logistics sẽ đảm nhiệm các công việc bao gồm lập kế hoạch cho chuỗi cung ứng, thiết kế cơ sở vật chất cần thiết, nhập kho, vận chuyển và phân phối hàng hóa, xử lý và quản lý đơn hàng, thậm chí có thể quản lý dịch vụ chăm sóc khách hàng. Những ví dụ điển hình nhất về các công ty thực hiện hợp đồng logistics có thể kể đến là: Kuehne + Nagel, Exel, Genco và DHL, BD Shenker, Vinatrans, Germandept, Yusen , PTV, SDS logistics…[1]

3. Phân loại

3.1. Căn cứ vào hình thức tổ chức hoạt động logistics

Thứ nhất, logistics bên thứ nhất (1 PL-First Party Logistics) chủ sở hữu hàng hóa tự mình tổ chức và thực hiện các hoạt động logistics để đáp ứng nhu cầu của bản thân. Thông thường đây là các công ty sở hữu các phương tiện vận tải, nhà xưởng, thiết bị xếp dỡ và các nguồn lực khác bao gồm cả con người để thực hiện các hoạt động Logistics. Đây là những tập đoàn Logistics lớn trên thế giới với mạng lưới Logistics toàn cầu, có phương cách hoạt động phù hợp với từng địa phương.

Thứ hai, logistics bên thứ hai (2 PL-Second Party Logistics) người cung cấp dịch vụ Logistics bên thứ hai là người cung cấp dịch vụ cho một hoạt động đơn lẻ của Logistics để đáp ứng nhu cầu của chủ hàng, chưa có tích hợp hoạt động Logistics như người vận chuyển thực tế, chẳng hạn như hãng tàu, hãng hàng không, hãng xe tải.

Thứ ba, logistics bên thứ ba (3 PL-Third Party Logistics) là người cung cấp giải pháp tổng thể cho dịch vụ Logistics cho khách hàng, họ thường đảm nhiệm một phần, hay toàn bộ các công đoạn của chuỗi cung ứng.

Thứ tư, logistics bên thứ tư (4 PL-Fourth Party Logistics) là chủ thể tích hợp các nguồn lực, khả năng và công nghệ của tổ chức riêng của mình và các tổ chức khác để thiết kế, xây dựng và cung cấp giải pháp dây chuyền cung ứng, hoạch định, tư vấn logistics, quản trị vận tải. 4 PL hướng đến quản trị cả quá trình logistics, như nhận hàng từ nơi sản xuất, làm thủ tục xuất, nhập khẩu, đưa hàng đến nơi tiêu thụ cuối cùng.

Gần đây, cùng với sự phát triển của thương mại điện tử, người ta đã nói đến khái niệm logistics bên thứ năm (5 PL). 5 PL phát triển nhằm phục vụ cho thương mại điện tử, các nhà cung cấp dịch vụ 5 PL là các 3 PL và 4 PL, đứng ra quản lý toàn chuỗi phân phối trên nền tảng thương mại điện tử.[2]

3.2. Căn cứ vào toàn bộ quá trình logistics

Thứ nhất, Logistics đầu vào (Inbound Logistics): bao gồm toàn bộ các hoạt động hỗ trợ nguồn nguyên liệu đầu vào từ nguồn cung cấp trực tiếp đến tay nhà sản xuất bao gồm các hoạt động như: tiếp nhận, lưu trữ và phổ biến hàng hóa hoặc nguyên vật liệu cho sản xuất.

Thứ hai, Logistics đầu ra (Outbound Logistics) là toàn bộ hoạt động hỗ trợ dòng sản phẩm đầu ra cho tới tay khách hàng bao gồm: sự lưu chuyển nguyên liệu liên quan đến việc lưu trữ, vận chuyển và phân phối hàng hóa cho khách hàng.

Thứ ba, Logistic thu hồi (Reverse Logistics) bao gồm toàn bộ hoạt động như một bộ phận của dây chuyền cung ứng, tiến hành lập ra kế hoạch thực hiện và kiểm soát công việc chu chuyển và lưu kho hàng hóa, cùng các dịch vụ và thông tin có liên quan từ địa điểm xuất phát đến nơi tiêu dùng như một hoạt động dịch vụ Logistic thông thường, Tuy nhiên chúng vận hành theo chu trình ngược nhằm mục đích thu hồi các giá trị còn lại của hàng hóa hoặc thải hồi một cách hợp lý.

3.3. Căn cứ theo quy định của pháp luật Việt Nam

Theo quy định của Luật Thương mại năm 2005, logistics bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hóa.

Căn cứ Quyết định số 10/2007/QĐ-TTg ngày 23/01/2007 của Thủ tướng Chính phủ về Hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam 2007, có thể nhóm một số phân ngành kinh tế thuộc dịch vụ logistics như: 4912 (vận tải hàng hóa đường sắt), 4933 (vận tải hàng hóa bằng đường bộ), 4940 (vận tải đường ống), 5012 (vận tải hàng hóa ven biển và viễn dương), 5022 (vận tải hàng hóa đường thủy nội địa), 5120 (vận tải hàng hóa hàng không), 5210 (kho bãi và lưu giữ hàng hóa), 5221 (hoạt động dịch vụ hỗ trợ trực tiếp cho vận tải đường sắt và đường bộ), 5222 (hoạt động dịch vụ hỗ trợ trực tiếp cho vận tải đường thủy), 5223 (hoạt động dịch vụ hỗ trợ trực tiếp cho vận tải hàng không), 5224 (bốc xếp hàng hóa), 5229 (hoạt động dịch vụ hỗ trợ khác liên quan đến vận tải), 5310 (bưu chính), 5320 (chuyển phát), và 8292 (dịch vụ đóng gói).

Trong khi đó, theo quy định của Điều 3 Nghị định số 163/2017/NĐ-CP ngày 30/12/2017 của Chính phủ về kinh doanh dịch vụ logistics, dịch vụ logistics bao gồm: 1. Dịch vụ xếp dỡ container, trừ dịch vụ cung cấp tại các sân bay; 2. Dịch vụ kho bãi container thuộc dịch vụ hỗ trợ vận tải biển; 3. Dịch vụ kho bãi thuộc dịch vụ hỗ trợ mọi phương thức vận tải; 4. Dịch vụ chuyển phát; 5. Dịch vụ đại lý vận tải hàng hóa; 6. Dịch vụ đại lý làm thủ tục hải quan (bao gồm cả dịch vụ thông quan); 7. Dịch vụ khác, bao gồm các hoạt động sau: kiểm tra vận đơn, dịch vụ môi giới vận tải hàng hóa, kiểm định hàng hóa, dịch vụ lấy mẫu và xác định trọng lượng; dịch vụ nhận và chấp nhận hàng; dịch vụ chuẩn bị chứng từ vận tải; 8. Dịch vụ hỗ trợ bán buôn, hỗ trợ bán lẻ bao gồm cả hoạt động quản lý hàng lưu kho, thu gom, tập hợp, phân loại hàng hóa và giao hàng; 9. Dịch vụ vận tải hàng hóa thuộc dịch vụ vận tải biển; 10. Dịch vụ vận tải hàng hóa thuộc dịch vụ vận tải đường thủy nội địa; 11. Dịch vụ vận tải hàng hóa thuộc dịch vụ vận tải đường sắt; 12. Dịch vụ vận tải hàng hóa thuộc dịch vụ vận tải đường bộ; 13. Dịch vụ vận tải hàng không; 14. Dịch vụ vận tải đa phương thức; 15. Dịch vụ phân tích và kiểm định kỹ thuật; 16. Các dịch vụ hỗ trợ vận tải khác; 17. Các dịch vụ khác do thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics và khách hàng thỏa thuận phù hợp với nguyên tắc cơ bản của Luật Thương mại.

CHƯƠNG 2. BÌNH LUẬN Ý KIẾN “DỊCH VỤ LOGISTICS BAO GỒM CHUỖI CÁC DỊCH VỤ”

Qua sự tìm hiểu trên nhận thấy, logistics không phải là một dịch vụ đơn lẻ. Logistics luôn là một chuỗi các dịch vụ về giao nhận hàng hóa như: làm các thủ tục giấy tờ, tổ chức vận tải, bao bì đóng gói, ghi nhãn hiệu, lưu kho, lưu bãi, phân phát hàng hóa (nguyên liệu hay thành phẩm) tới các địa chỉ khác nhau. Chính vì vậy, nói tới logistics người ta bao giờ cũng nói tới một chuỗi hệ thống dịch vụ (logistics system chain). Logistics chính là quá trình tối ưu hóa mọi công việc, hoặc thao tác từ khâu cung ứng, sản xuất, phân phối và tiêu dùng.

Có thể thấy, nội dung của dịch vụ logistics rất đa dạng, bao gồm các công việc như:

Một là, nhận hàng từ người gửi để vận chuyển: đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, chuyển hàng từ kho của người gửi tới cảng, bến tàu, bến xe v.v… theo thỏa thận giữa người vận chuyển với người thuê vận chuyển.

Hai là, làm các thủ tục giấy tờ cần thiết: thủ tục hải quan, vận đơn vận chuyển, làm thủ tục gửi giữ hàng hóa v.v.. để gửi hàng hóa hoặc nhận hàng hóa được vận chuyển đến.

Ba là, giao hàng hóa cho người vận chuyển, xếp hàng hóa lên phương tiện vận chuyển theo quy định, nhận hàng hóa được vận chuyển đến.

Bốn là, tổ chức nhận hàng, lưu kho, lưu bãi, bảo quản hàng hóa hoặc thực hiện giao hàng hóa được vận chuyển đến cho người có quyền nhận hàng.

Chuỗi các dịch vụ logistics có tác động từ giai đoạn tiền sản xuất cho tới khi hàng hóa tới tay của người tiêu dùng cuối cùng. Theo đó, dịch vụ logistics gắn liền cả quá trình nhập nguyên, nhiên vật liệu làm đầu vào cho quá trình sản xuất, sản xuất ra hàng hóa và đưa vào các kênh lưu thông, phân phối đến tay người tiêu dùng cuối cùng. Có thể nói, chúng góp phần phân định rõ ràng giữa các nhà cung cấp từng dịch vụ đơn lẻ như dịch vụ vận tải, giao nhận, khai thuê hải quan, phân phối, dịch vụ hỗ trợ sản xuất, tư vấn quản lý… với một nhà cung cấp dịch vụ logistics chuyên nghiệp, người sẽ đảm nhận toàn bộ các khâu trong quá trình hình thành và đưa hàng hóa tới tay người tiêu dùng cuối cùng. Như vậy, nhà cung cấp dịch vụ logistics chuyên nghiệp đòi hỏi phải có chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng để cung cấp dịch vụ mang tính “trọn gói” cho các nhà sản xuất. Đây là một công việc mang tính chuyên môn hóa cao. Ví dụ, khi một nhà cung cấp dịch vụ logistics cho nhà sản xuất thép, họ sẽ chịu trách nhiệm cân đối sản lượng của nhà máy và lượng hàng tồn kho để nhập phôi thép, tư vấn cho doanh nghiệp về chu trình sản xuất, kỹ năng quản lý và lập các kênh phân phối, các chương trình makerting, xúc tiến bán hàng để đưa sản phẩm đến với người tiêu dùng.

Thương mại điện tử đang bước vào giai đoạn tăng trưởng mạnh mẽ chưa từng có và xu hướng này sẽ bùng nổ với sự phát triển của thương mại điện tử di động. Người tiêu dùng có thể tìm mua online mọi thứ, từ đồ cổ cho tới nội thất, hàng tạp hóa, thiết bị điện tử… và người bán có thể bán mọi lúc mọi nơi, chuỗi cửa hàng bán lẻ cũng được đồng bộ hóa cùng hệ thống online. Trong xu hướng dịch chuyển từ thương mại truyền thống sang thương mại điện tử của kinh tế thế giới hiện đại, ngành dịch vụ hậu cần cũng có những thay đổi nhanh chóng và theo kịp xu hướng đó. Kết quả là ngành dịch vụ hậu cần điện tử (e-Logistics) ra đời. Tuy nhiên, hiện nay Việt Nam chưa ban hành luật e-logistics nên khi nhắc tới logistics hay e-logistics thì văn bản pháp luật điều chỉnh trực tiếp vẫn là Luật Thương mại năm 2005.

CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGÀNH DỊCH VỤ LOGISTICS TẠI VIỆT NAM

1. Thực trạng pháp luật ngành dịch vụ logistics tại Việt Nam

Theo Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA), tốc độ phát triển của ngành logistics tại Việt Nam ở Việt Nam có khoảng những năm gần đây đạt khoảng 14%-16%, với quy mô khoảng 40-42 tỷ USD/năm. Tham gia thị trường logistics gồm khoảng 3.000 doanh nghiệp trong nước và khoảng 25 tập đoàn giao nhận hàng đầu thế giới kinh doanh dưới nhiều hình thức. Hiện nay, 30 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics xuyên quốc gia đang hoạt động tại Việt Nam với các tên tuổi lớn như: DHL, FedEx, Maersk Logistics, APL Logistics, CJ Logistics, KMTC Logistics…

Theo xếp hạng của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam hiện đứng thứ 64/160 nước về mức độ phát triển logistics và đứng thứ 4 trong khu vực ASEAN sau Singapore, Malaysia và Thái Lan. Với tốc độ phát triển hàng năm đạt từ 14-16%, đây là một trong những ngành dịch vụ tăng trưởng nhanh và ổn định nhất của Việt Nam trong thời gian qua.

Dự báo, đến hết năm 2020, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam ước đạt mức 300 tỷ USD, hàng container qua hệ thống cảng biển Việt Nam đạt 67,7 triệu TEU, do vậy, tiềm năng phát triển dịch vụ logistics Việt Nam là rất lớn. Trong tương lai không xa, dịch vụ cung cấp logistics sẽ trở thành ngành kinh tế quan trọng, có thể đóng góp tới 15% GDP của cả nước.

Đặc biệt, thời gian gần đây đã có sự bùng nổ về thương mại điện tử và e-Logistics. Theo Cục Thương mại điện tử và kinh tế số của Bộ Công Thương, thương mại điện tử tăng trưởng 35%/năm; doanh số bán lẻ thương mại điện tử của Việt Nam trong giai đoạn 2016-2020 ước tính tăng 20%/năm và tổng doanh số bán lẻ thương mại điện tử Việt Nam dự kiến đạt 10 tỷ USD vào năm 2020. Những thay đổi trong thương mại điện tử trên thế giới và tại Việt Nam đã thúc đẩy ngành logistics Việt Nam cải thiện phương thức cung cấp dịch vụ ngày càng chuyên nghiệp và hiệu quả hơn.[3]

Thứ nhất, pháp luật hiện hành còn thiếu quy định về khái niệm e-logistics, gây khó hiểu và khó thực hiện. Logistics cũng như thương mại điện tử đang bùng nổ và là xu hướng phát triển trong thời gian tới. Tuy nhiên, hiện nay, do chưa nghiên cứu sâu, có nhiều người vẫn hiểu chưa đúng và chưa phân biệt được hai khái niệm e-logistics và logistics. Ngoài ra, không ít người còn đồng nhất hai khái niệm này với nhau. Nhầm lẫn sẽ dẫn đến việc đánh giá không đúng vị trí, vai trò của hai hoạt động logistics và e-logisitics trong thương mại điện tử cũng như hạ thấp chức năng của chúng. Đồng thời, việc phân loại các hoạt động logistics còn nằm rải rác ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau dẫn đến khó khăn trong công tác quản lý và áp dụng để xác định các hoạt động logistics.

Thứ hai, hiện nay, hệ thống pháp luật Việt Nam điều chỉnh logistics trong hoạt động thương mại điện tử chưa đồng bộ, thiếu nhất quán về trách nhiệm và giới hạn quản lý giữa các cơ quan nhà nước trong việc quản lý hoạt động logistics. Tuy logistics được xem là “yếu tố then chốt” phát triển sản xuất, thúc đẩy phát triển các ngành dịch vụ khác, nhưng đến nay chưa được quản lý vào một đầu mối thống nhất. Logistics thực ra không phải là một ngành nghề riêng biệt mà nó chính là một chuỗi hoạt động bao gồm rất nhiều công việc khác nhau liên quan đến nhiều ngành nghề như: vận tải, đóng gói, làm thủ tục thuế, hải quan… Vì vậy, các doanh nghiệp đăng ký kinh doanh dịch vụ logistics đang phải tuân thủ cùng lúc ít nhất hai tầng điều kiện kinh doanh: điều kiện cho ngành riêng lẻ trong chuỗi và điều kiện chung của chuỗi logistics khi bị gọi là ngành nghề kinh doanh. Mỗi hoạt động này tương ứng với một ngành, nghề kinh doanh và được điều chỉnh bởi pháp luật chuyên ngành với cơ quan có thẩm quyền quản lý riêng biệt. Điều này thực sự chưa hợp lý vì vừa không phục vụ mục tiêu quản lý nhà nước, vừa làm tăng chi phí tuân thủ của doanh nghiệp.

Thứ ba, như chúng ta đã biết, mục tiêu quản lý nhà nước về phân cấp quản lý là sự phân định thẩm quyền, trách nhiệm giữa các cấp chính quyền trên cơ sở bảo đảm sự phù hợp giữa khối lượng và tính chất thẩm quyền nhằm tăng cường chất lượng, hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước và giảm chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp. Trong khi đó, quy định về phân cấp quản lý hoạt động logistics như hiện nay sẽ gây chồng chéo trong thẩm quyền quản lý và gây tốn kém cho doanh nghiệp khi phải đối mặt với nhiều thủ tục hành chính xin phép cho hoạt động kinh doanh này. Ví dụ, theo quy định của Nghị định 87/2009/NĐ-CP về vận tải đa phương thức và Nghị định 89/2011/NĐ-CP (sửa đổi Nghị định 87/2009/NĐ-CP), Bộ Giao thông Vận tải được giao là cơ quan cấp giấy phép kinh doanh vận tải đa phương thức – một hoạt động quan trọng của dịch vụ logistics, trong khi đó, theo quy định của Luật Thương mại năm 2005, Bộ Công thương là cơ quan quản lý nhà nước về logistics, việc đăng ký kinh doanh logistics lại do Sở Kế hoạch và Đầu tư thực hiện. Điều đó đồng nghĩa với việc để thực hiện hoạt động này, doanh nghiệp phải thông qua rất nhiều thủ tục hành chính với các khoản phí, lệ phí chính thức và không chính thức không hề nhỏ.

2. Cơ hội và thách thức thúc đẩy phát triển ngành logistics

Hiện nay, Việt Nam được đánh giá có nhiều cơ hội để thúc đẩy phát triển ngành dịch vụ Logistics. Cụ thể, hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ, cảng hàng không, cảng biển, kho bãi, hạ tầng thương mại, trung tâm logistics không ngừng được mở rộng với quy mô lớn, rộng khắp. Cùng với đó, các dịch vụ đi kèm đã, đang đáp ứng kịp thời những yêu cầu hết sức đa dạng của thị trường. Các thủ tục, thời gian thông quan đối với hàng xuất khẩu cũng đã cải thiện đáng kể.

Công tác hoàn thiện quy định pháp luật thời gian qua đã được Chính phủ quan tâm. Thực tiễn hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam, nhất là việc thực hiện các Hiệp định Thương mại tự do (FTA) thế hệ mới đòi hỏi phải có những quy định phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi, thông thoáng cho ngành Dịch vụ logistics phát triển, đẩy mạnh đầu tư trong nước và hợp tác quốc tế.

Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 200/QĐ-TTg ngày 14/02/2017 phê duyệt Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển ngành Dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025. Trong đó, đề ra 06 mục tiêu, 60 nhiệm vụ cụ thể với nhiều giải pháp toàn diện, nhằm đưa ngành này vượt qua những khó khăn, thách thức, đạt trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước.

Ngày 30/12/2017, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 163/2017/NĐ-CP quy định về kinh doanh dịch vụ logistics (có hiệu lực từ ngày 20/02/2018), thay thế Nghị định số 140/2007/NĐ-CP ngày 05/09/2007 quy định chi tiết Luật Thương mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics.

Việc ban hành Nghị định này đã bao quát toàn diện các dịch vụ logistics, nội luật hóa các cam kết quốc tế về logistics như đề ra trong Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics đến năm 2025. Đây là bước tiến mới trong việc cải cách thể chế liên quan đến ngành Dịch vụ logistics cũng như có các quy định cụ thể về đầu tư phát triển dịch vụ logistics của Việt Nam.

Ngày 06/07/2018, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ban hành Hệ thống ngành Kinh tế Việt Nam và đây là lần đầu tiên Việt Nam có mã ngành logistics riêng (Mã 52292: Logistics). Ngày 18/07/2018, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Chỉ thị số 21/CT-TTg về đẩy mạnh triển khai các giải pháp nhằm giảm chi phí logistics, kết nối hiệu quả hệ thống hạ tầng giao thông… Chính phủ đã thể hiện rõ cam kết hỗ trợ, kiến tạo môi trường thuận lợi, để nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam.[4]

Bên cạnh những kết quả và thành tựu mà ngành logistics Việt Nam đạt được trong thời gian qua, ngành cũng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức:

Một là, thể chế, chính sách đối với lĩnh vực logistics chưa đồng bộ, còn tồn tại một số bất cập. Liên quan đến khung khổ pháp lý đối với ngành logistics, hiện nay có khá nhiều văn bản, song các chính sách cụ thể, chi tiết hóa các cụ thể các chủ trương đó vẫn chưa được thực hiện hoặc còn chồng chéo.

Hai là, cơ sở hạ tầng giao thông vận tải còn yếu kém, không đồng bộ, chưa tạo ra hành lang vận tải đa phương thức trong khi nhu cầu trung chuyển chất lượng cao cho hàng hóa giữa các phương thức đang ngày càng lớn. Việt Nam còn thiếu các khu kho vận tập trung có vị trí chiến lược, đồng bộ với hệ thống cảng, sân bay, đường quốc lộ, cơ sở sản xuất; Mất cân đối cung cầu tại các cảng biển miền Nam.

Ba là, hoạt động của chính các DN logistics còn nhiều hạn chế cả về quy mô hoạt động, vốn, nguồn nhân lực… Các DN cung cấp dịch vụ logistics ở Việt Nam hầu hết là những DN nhỏ và vừa, hoạt động kinh doanh dịch vụ logistics còn manh mún, thiếu kinh nghiệm và chuyên nghiệp, cung cấp các dịch vụ cơ bản, hoặc cung cấp từng dịch vụ đơn lẻ, cạnh tranh về giá là chủ yếu, ít giá trị gia tăng, thường chỉ đóng vai trò là nhà thầu phụ hay đại lý cho các công ty nước ngoài.

Bốn là, nguồn nhân lực phục vụ cho dịch vụ logistics chưa qua đào tạo bài bản còn thiếu và yếu, chưa đáp ứng yêu cầu, đặc biệt thiếu các chuyên viên logistics giỏi có năng lực ứng dụng và triển khai tại các DN nghiệp. Trong số các DN nội địa hiện nay, có tới 93 – 95% người lao động không được đào tạo bài bản, chủ yếu làm dịch vụ ở các chuỗi cung ứng nhỏ như: Giao nhận, kho bãi, xử lý vận đơn…

Phát triển dịch vụ logistics thành một ngành dịch vụ sẽ đem lại giá trị giá tăng cao, gắn dịch vụ logistics với phát triển sản xuất hàng hóa, xuất nhập khẩu và thương mại trong nước, phát triển hạ tầng giao thông vận tải và công nghệ thông tin… Phát triển thị trường dịch vụ logistics lành mạnh sẽ tạo cơ hội bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, khuyến khích thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước phù hợp với pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Đồng thời, hình thành các trung tâm logistics ở nước ngoài làm đầu cầu, tập kết và phân phối hàng hóa Việt Nam đến các thị trường quốc tế. Tăng cường liên kết với các hiệp hội và doanh nghiệp dịch vụ logistics khu vực ASEAN và trên thế giới. Vận động thu hút đầu tư xây dựng trung tâm logistics để thúc đẩy xuất nhập khẩu hàng hóa Việt Nam với thị trường toàn cầu, nhằm hình thành các trung tâm logistics ở nước ngoài làm đầu cầu, tập kết và phân phối hàng hóa Việt Nam đến các thị trường quốc tế.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Luật Thương mại 2005

2. Bộ luật dân sự 2015

3. Nghị định số 163/2017/NĐ-CP quy định về kinh doanh dịch vụ logistics

4. Quyết định số 200/QĐ-TTg ngày 14/02/2017 phê duyệt Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển ngành Dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025.

5. Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ban hành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam

6. Bùi Thái Hà, “Pháp luật Việt Nam về kinh doanh dịch vụ Logistics”, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội, 2012.

7. Vũ Thị Nhung, “Pháp luật về dịch vụ logistics ở Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội, 2009. 8. Hà Thị Lan, “Pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh dịch vụ logistics ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội, 2019.

Một số bài luận liên quan:

1900.0191