TỘI BẮT CÓC NHẰM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN (ĐIỀU 134)
Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là hành vi bắt người làm con tin nhằm buộc người khác phải nộp cho mình một khoản tiền hoặc tài sản thì mới thả người bị bắt.
Bắt người làm con tin là bắt và giữ lại để buộc người muốn chuộc phải bảo đảm thực hiện một lời hứa nhằm thoả mãn một yêu sách của người bắt, nhưng chỉ bắt người làm con tin nhằm buộc người muốn chuộc phải giao tài sản hoặc một số tiền thì mới là bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản. Nếu bắt cóc nhằm mục đích khác thì không phải là bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản mà tuỳ trường hợp cụ thể mà người có hành vi bắt cóc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội phạm tương ứng.
Trong cuộc sống, nhân dân ta coi hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản chính là hành vi bắt cóc tống tiền. Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là bắt người đem giấu một nơi để đòi tiền chuộc. Tuy nhiên, trong thực tế có nhiều trường hợp bắt người đem giấu một nơi nhưng không đòi tiền chuộc mà nhằm mục đích khác, nên nhà làm luật phải quy định bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản mới là tội phạm được quy định trong chương “các tội xâm phạm sở hữu”. Nếu bắt cóc không nhằm chiếm đoạt tài sản thì có thể là hành vi cấu thành tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật quy định tại Điều 123 Bộ luật hình sự hoặc tội đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em quy định tại Điều 120 Bộ luật hình sự.
Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự là tội phạm đã được quy định tại Điều 152 Bộ luật hình sự năm 1985. So với Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 134 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều sửa đổi bổ sung, nhất là đối với các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt, quy định cụ thể hơn, dễ áp dụng hơn. Bộ luật hình sự năm 1985 không quy định tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa vì thực tiễn xét xử chưa có trường hợp nào người phạm tội chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa bằng hành vi bắt cóc. Nay Bộ luật hình sự năm 1999 quy định tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, không phân biệt tài sản xã hội chủ nghĩa hay tài sản của công dân cũng là nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong giai đoạn mới.
Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự nói chung có khung hình phạt nặng hơn tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản của công dân quy định tại Điều 152 Bộ luật hình sự năm 1985.
Về cơ cấu, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự được cấu tạo thành 5 khoản ( Điều 152 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ có 2 khoản ).
Nhà làm luật quy định thêm nhiều tình tiết là yếu tố định khung hình phạt mà Điều 152 Bộ luật hình sự năm 1985 chưa quy định, như phạm tội đối với trẻ em; đối với nhiều người; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người bị bắt làm con tin; giá trị tài sản…
Hình phạt bổ sung cũng được quy định ngay trong điều luật.
I. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM
1.Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm
Đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, chủ thể của tội phạm cũng tương tự như đối với tội cướp tài sản. Tuy nhiên, người phạm tội từ dủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 134, vì khoản 1 Điều 134 là tội phạm nghiêm trọng và theo quy định tại khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; khoản 1 Điều 134 chỉ là tội phạm nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung hình phạt là bảy năm tù.
Vì vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đối với người phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản cần chú ý độ tuổi của người phạm tội và các tình tiết định khung hình phạt. Nếu người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự thì chỉ cần xác định người phạm tội đã đủ 14 tuổi là đã phải chịu trách nhiệm hình sự, nhưng nếu người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự thì người phạm tội phải đủ 16 tuổi mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
2.Các dấu hiệu về khách thể của tội phạm
Khách thể của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản cũng tương tự như tội cướp tài sản, tức là cùng một lúc xâm phạm đến hai khách thể ( quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân), nên trong cùng một vụ án có thể có thể có một người bị hại, nhưng cũng có thể có nhiều người bị hại, có người bị hại chỉ bị xâm phạm đến tài sản; có người bị hại bị xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự; có người bị hại vừa bị xâm phạm đến tài sản vừa bị xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự.
Thông thường tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt, người bị bắt cóc là người bị xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự; còn người bị xâm phạm tài sản lại là những người thân của người bị bắt cóc. Tuy nhiên, cũng có trường hợp người bị bắt cóc đồng thời là người bị xâm phạm tài sản. Ví dụ: Ông Trần M là chủ một tiệm vàng ở thành phố H. Vào một buổi sáng, ông M đang tập thể dục trong công viên, thì bị Hoàng Công T, Vũ Trọng D và Trịnh Văn C dùng vũ khí uy hiếp buộc ông M lên xe ô tô, sau đó chúng đưa ông M về nhà Trịnh Văn C. Tại đây, chúng buộc ông M phải viết thư về gia đình lấy 20 lượng vàng giao cho bọn chúng thì chúng mới thả ông M.
3.Các dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm
a.Hành vi khách quan
Bắt cóc là hành vi bắt người trái pháp luật. Thông thường hành vi bắt người làm con tin được thực hiện một cách lén lút và đưa người bị bắt đến một nơi nào đó rồi tìm cách thông báo cho người thân của người bị bắt cóc biết, cùng với yêu cầu người thân của họ phải nộp một số tiền thì mới thả người bị bắt cóc, nếu không nộp tiền hoặc tài sản thì người bị bắt cóc sẽ bị nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm.
Hành vi bắt người trái pháp luật được thực hiên bằng nhiều thủ đoạn khác nhau như: dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc bằng những thủ đoạn khác như cho uống thuốc ngủ, thuốc mê, xịt ête, lừa dối… để bắt được người làm con tin. Thủ đoạn bắt cóc không phải là đấu hiệu đặc trưng của hành vi phạm tội (không có ý nghĩa trong việc định tội), nhưng hành vi bắt cóc người làm con tin lại là đặc trưng cơ bản của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, bởi lẽ bắt người làm con tin chính là một thủ đoạn nhằm chiếm đoạt tài sản.
Người bị bắt cóc làm con tin là người bất kỳ ( người lớn, trẻ em, người già, nam giới, nữ giới…, không phân biệt tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp, địa vị xã hội…).
Ngoài hành vi bắt cóc người làm con tin, người phạm tội còn có hành vi đe doạ người khác ( cơ quan, tổ chức hoặc người thân của con tin ) nếu không giao nộp tiền hoặc tài sản thì con tin sẽ bị giết, bị đánh đập, hành hạ… Hành vi đe doạ người khác cũng có thể được thực hiện bằng nhiều phương pháp khác nhau như: gọi điện thoại, viết thư, nhắn tin qua người khác hoặc trực tiếp gặp người thân của con tin…
Cùng với việc đe doạ người khác, người phạm tội còn có thể có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc có những hành vi, thủ đoạn khác đối với người bị bắt làm con tin để người này sợ hãi mà yêu cầu cơ quan, tổ chức hoặc người thân của mình nộp tiền hoặc tài sản như: đánh, trói, bắt nhịn ăn, nhịn uống, làm nhục, doạ giết, doạ đánh, doạ đem bán ra nước ngoài, bán cho các ổ mại dâm… Đối với hành vi xâm phạm trực tiếp đến con tin, nếu cấu thành một tội độc lập thì người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tương ứng với hành vi xâm phạm. Ví dụ: Tống Văn N, Uông Sĩ T, Hà Văn Đ bàn bạc phục bắt cóc chị Hoàng Thị P nhằm chiếm đoạt tài sản. Khi chị P đang trên đường từ chợ về nhà, thì bị Uông Sĩ T nói dối là anh Nguyễn Quốc H (chồng chị P) bị tai nạn giao thông đang cấp cứu tại bệnh viện tỉnh; chị P tưởng thật nên đã nhờ T chở chị vào bệnh viện xem chồng bị tai nạn như thế nào. T đã dùng xe máy chở chị P đến một nhà kho bỏ không mà Tống Văn N và Hà Văn Đ đã đểi sẵn ở đó. Đến nơi, chị P biết mình bị lừa định bỏ chạy, thì bị N và Đ trói và hăm doạ, buộc chị P phải viết thư về cho chồng đem 10 lượng vàng nộp cho bọn chúng thì chúng mới thả chị P về. Sau khi chị P viết thư cho chồng, N giao cho Đ và T ở lại trông giữ chị P, còn N đem thư của chị P về tống tiền anh H. Khi N đã đi, Đ và T ở lại đã cưỡng hiếp chị P. Hành vi của Đ và T là hành vi cấu thành tội hiếp dâm, ngoài tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản cùng với N.
Nếu hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc có những hành vi khác, nhưng hành vi này được quy định là yếu tố định khung hình phạt quy định tại khoản 2, khoản 3, khoản 4 của Điều 134 Bộ luật hình sự thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự thêm tội. Ví dụ: Người bị bắt làm con tin bị trói, bị đánh đập gây tổn hại đến sức khoẻ có tỷ lệ thương tật 35%, thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khoẻ sức” mà người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt theo điểm a khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự.
b.Hậu quả
Cũng như tội cướp tài sản, hậu quả của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt không phải là yếu tố bắt buộc để định tội, nếu người phạm tội chưa gây ra hậu quả nhưng có ý thức chiếm đoạt và đã thực hiện hành vi bắt cóc người làm con tin là tội phạm đã hoàn thành. Tuy nhiên, nếu gây ra hậu quả thì tuỳ thuộc vào tính chất, mức độ nguy hiểm mà người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung hình phạt nặng hơn hoặc là tình tiết xem xét khi quyết định hình phạt.
Trường hợp, người phạm tội chưa bắt cóc được người làm con tin vì những lý do khác nhau, thì thuộc trường hợp phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội ( chuẩn bị phương tiện, dụng cụ… để bắt cóc nhưng bắt không được), nếu không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự vì khoản 1 Điều 134 chỉ là tội phạm nghiêm trọng và theo quy định Điều 17 Bộ luật hình sự thì người chuẩn bị phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
Cũng như đối với tội cướp tài sản, hậu quả của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt có thể là tài sản nhưng cũng có thể là tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người. Khi xác định hậu quả của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt cần chú ý: Chỉ những hậu quả do hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản gây ra mới là hậu quả của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt ( có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi bắt cóc hằm chiếm đoạt tài sản với hậu quả xẩy ra). Nếu hậu quả xảy ra lại không phải do hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản gây ra, thì không coi là hậu quả của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, mà tuỳ từng trường hợp người phạm tội có thể bị truy cứu về một tội phạm khác như trường hợp Uông Sĩ T, Hà Văn Đ đối với chị Hoàng Thị P nêu ở trên.
4.Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm
Cũng như đối với tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt được thực hiện do cố ý. Mục đích của người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản. Nếu hành vi bắt cóc người làm con tin lại nhằm một mục đích khác mà không nhằm chiếm đoạt tài sản thì không phải là tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản mà tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một tội phạm tương ứng khác. Ví dụ: Để trả thù anh Đinh Văn Th, nên Vũ Xuân H bắt cóc con trai anh Th mới ba tuổi để anh Th phải từ bỏ chuyến đi công tác nước ngoài. Hành vi của Vũ Xuân H chỉ phạm tội bắt người trái pháp luật quy định tại Điều 123 Bộ luật hình sự.
Mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội có thể có trước khi thực hiện hành vi bắt cóc, nhưng cũng có thể xuất hiện trong hoặc sau khi đã thực hiện hành vi bắt cóc người làm con tin. Ví dụ: Trong trường hợp đối với Vũ Xuân H vừa nêu ở trên, sau khi đã bắt được con của anh Th, H lại có ý định chiếm đoạt tài sản của anh Th và có những hành vi buộc anh Th phải giao cho mình một khoản tièn thì mơí trả con cho anh Th, thì hành vi của H đã chuyển hoá từ tội bắt người trái pháp luật sang tột bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản.
Mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc để xác định tội danh. Tuy nhiên, ngoài mục đích chiếm đoạt, người phạm tội còn có thể có những mục đích khác cùng với mục đích chiếm đoạt hoặc chấp nhận mục đích chiếm đoạt của người đồng phạm khác thì người phạm tội cũng chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản. Ví dụ: Phạm Thanh B, có thù với anh Trịnh Văn D nên B đã rủ Nguyễn Văn T và Vũ Thị C bắt cóc cháu Trịnh Văn H (con trai anh D) để trả thù, nhưng khi bàn với T và C thì T và C nói : “Chúng tao cần một ít tiền để trả nợ”. Sau khi đã bắt được cháu H, C và T bàn với B điện cho anh D phải nộp 50.000.000 thì mới thả cháu H về, B đồng ý với đề xuất của T và C nên đã điện cho anh B về việc phải nộp 50.000.000 đồng cho bon chúng. Trong trường hợp này, lúc đầu Phạm Thanh B chỉ có ý định bắt con anh D để trả thù, nhưng khi bàn với đồng bọn, B đã tiếp nhận mục đích của C và T, đồng thời có hành vi nhằm thực hiện mục đích đó, nên B cũng phải chịu trách nhiệm về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản cùng với T và C.
II. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1.Phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản không có các tình tiết định khung hình phạt
Theo quy định tại khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 134 có thể bị phạt từ hai năm đến bảy năm tù. Khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự là cấu thành cơ bản của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, là tội phạm nghiêm trọng. So với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản của công dân quy định tại Điều 152 Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn khoản 1 Điều 152 Bộ luật hình sự năm 1985. Vì vậy, đối với hành vi phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản của công dân xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau ngày 4-1-2000 ( ngày Chủ tịch nước công bố Bộ luật hình sự năm 1999), mới phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử thì được áp dụng khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 1999, nhưng đối với hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 (nếu có) mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện, xử lý thì không được áp dụng Điều 134 Bộ luật hình sự 1999 để điều tra, truy tố, xét xử đối với người phạm tội vì Bộ luật hình sự năm 1985 không quy định tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa.
Khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 1999 là tội phạm nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung hình phạt đến bảy năm tù. Theo quy định tại điểm d Mục 3 Nghị quyết 32/1999/QH10 ngày 21-12-1999 của Quốc hội, thì không xử lý về hình sự đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi về tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt đến bảy năm tù; nếu vụ án đang được điều tra, truy tố, xét xử thì phải đình chỉ; trong trường hợp người đó đã bị kết án và đang chấp hành hình phạt hoặc đang được tạm đình chỉ thi hành án, thì họ được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại; nếu người bị kết án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang được hoãn thi hành án, thì được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt và tại điểm b Mục 3 Nghị quyết 229/2000/NQ-UBTVQH10 ngày 28-1-2000 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định: “Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu Bộ luật hình sự năm 1999 quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 7 năm tù đối với tội phạm mà người đó thực hiện” thì thuộc trường hợp được áp dụng điểm d Nghị quyết số 32/1999/QH10 ngày 21-12-1999 của Quốc hội. Theo các Nghị quyết trên, thì người phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản của công dân xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 152 Bộ luật hình sự năm 1985, nay khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm tù nên được áp dụng điểm d Mục 3 Nghị quyết số 32/1999/QH10 ngày 21-12-1999 của Quốc hội.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội bắt cóc nằm chiếm đoạt tài sản theo khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự, Toà án cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu các tình tiết khác như nhau thì mức hình phạt đối với người phạm tội phu thuộc vào những yếu tố sau:
– Người phạm tội dùng vũ lực để bắt cóc người làm con tin phải bị phạt nặng hơn trường hợp không dùng vũ lực;
– Nếu dùng vũ lực lại gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân có tỷ lệ thương tật dưới 11% phải bị phạt nặng người phạm tội không gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân;
– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng phải bị phạt nặng hơn người phạm tội có ít hoặc không có tình tiết tăng nặng;
– Người phạm tội không có tình tiết giảm nhẹ phải bị phạt nặng hơn người phạm tội có tình tiết giảm nhẹ;
– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ được phạt nhẹ hơn người có ít tình tiết giảm nhẹ;
– Người phạm tội chiếm đoạt được tài sản phải bị phạt nặng hơn người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản;
2.Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự
a.Phạm tội có tổ chức
Trường hợp phạm tội này tương tự như trường hợp phạm tội cướp tài sản có tổ chức được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 133 Bộ luật hình sự, các dấu hiệu về phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, đối với phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản có tổ chức còn có những đặc điểm riêng sau:
Người thực hành là người trực tiếp thực hiện hành vi bắt cóc người làm con tin; canh giữ con tin; dụ dỗ, khống chế, hăm doạ con tin; chuyển những tin tức cho cơ quan, tổ chức hoặc người thân của con tin; tiếp nhận tài sản hoặc tiền chuộc con tin…
Người thực hành trong vụ án bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản cũng có thể có hành vi thái quá trong quá trình thực hiện tội phạm. Tuy nhiên, nếu hành vi thái quá đó chỉ nhằm thực hiện việc bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản mà những người đồng phạm khác mong muốn thì hành vi thái quá của người thực hành tất cả những đồng phạm khác phải chịu. Ví dụ: Vũ Minh T, Đỗ Văn K và Nguyễn Văn H bàn bạc thống nhất bắt cóc cháu Trần Văn Q con anh Trần Quyết Th nhằm buộc anh Th phải nộp cho chúng 100.000.000 đồng chúng mới thả cháu Q. Theo kế hoạch, thì Vũ Minh T có nhiệm vụ giả vờ người nhà cháu Q đến đón cháu tại trường mầm non sau giờ học, Đỗ Văn K có nhiệm vụ dùng xe máy đến chở T và cháu Q về nhà Nguyễn Văn H. Trên đường đưa cháu Q về nhà H, cháu Q thấy người lạ nên khóc và không chịu để T và K chở đi, một số người thấy nghi bèn đến hỏi T và K cho rõ ngọn ngành. Thấy nguy cơ bị lộ, K đã rút dao ra đâm bị thương anh Vũ Khắc X và doạ mọi người, ai xông vào sẽ bị đâm chết, nên mọi người sợ hãi để T và K bắt cháu Q đi. Trong trường hợp này, hành vi đâm anh X của K nằm ngoài dự kiến của T và H, nhưng lại cùng mục đích là bắt cóc cháu Q nhằm chiếm đoạt tài sản của anh Th, cho nên T và H cùng phải chịu chung trách nhiệm hình sự về hành vi gây thương tích cho anh X của K.
Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản. Nói chung, phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản có tổ chức, thì việc tổ chức tương đối chặt chẽ, có sự phân công vai trò của từng người đồng phạm, vạch kế hoạch, chuẩn bị phương tiện… để việc bắt cóc người làm con tin dễ dàng. Cùng với việc vạch kế hoạch bắt cóc, người tổ chức và những người đồng phạm khác còn vạch kế hoạch giam giữ, hăm doạ, khống chế con tin; chuẩn bị kế hoạch để chiếm đoạt tiền chuộc mà không bị phát hiện. v.v…
Người xúi giục trong vụ án bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người đồng phạm khác thực hiện tội phạm. Thực tiễn xét xử cho thấy, người xúi giục trong vụ án bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản thường là những người có mâu thuẫn với người thân của người bị bắt cóc, nhưng không có khả năng tổ chức việc bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản nên xúi dục người khác thực hiện việc bắt cóc, đồng thời có một số hành vi giúp sức cho việc thực hiện tội phạm như: chỉ mặt, chỉ nhà, cung cấp quy luật đi về của người bị bắt cóc cho đồng bọn… Tuy nhiên, trong một số trường hợp, người xúi giục trong vụ án bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản đồng thời là người tổ chức.
Người giúp sức trong vụ án bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản như: gọi điện cho người thân của người bị bắt cóc, chuyển thư, nắn tin cho người thân của người bị bắt cóc ( con tin ), nhận tiền hoặc tài sản của người thân của con tin chuyển giao cho đồng bọn…
b.Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản có tính chất chuyên nghiệp
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp cướp tài sản có tính chất chuyên nghiệp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự, tức là người phạm tội lấy việc bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là phương tiện sinh sống chính của mình. Nói chung, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản có tính chất chuyên nghiệp thường được thực hiện có tổ chức. Nếu người phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản có tính chất chuyên nghiệp và có tổ chức thì người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tình tiết định khung hình phạt (phạm tội có tổ chức và có tính chất chuyên nghiêp). Tuy nhiên, không phải trường hợp phạm tội có tổ chức nào, tất cả những người phạm tội đều bị coi là có tính chất chuyên nghiệp mà có thể có người phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, có người phạm tội lần đầu. Vì vậy, khi xét hành vi phạm tội có tính chất chuyên nghiệp hay không, phải căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và hành vi cụ thể mà người phạm tội thực hiện.
Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp nói chung, phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản nói riêng, nhất thiết phải là người thực hiện hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt nhiều lần, nhưng không phải cứ thực hiện việc bắt cóc nhiều lần nhằm chiếm đoạt tài sản đều là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, mà phải xem xét việc thực hiện tội phạm của họ có thật sự là phương tiện sống hay không. Nếu phạm tội nhiều lần nhưng họ không lấy việc phạm tội là lẽ sống thì không coi là có tính chất chuyên nghiệp mà chỉ là trường hợp phạm tội nhiều lần ( tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự).
Vấn đề đặt ra là, người phạm tội chỉ thực hiện tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản vài lần, thậm chỉ chỉ một lần, nhưng người phạm tội lấy việc phạm tội là phương tiện sống, vậy có coi hành vi phạm tội của họ có tính chất chuyên nghiệp không ? Ví dụ: Trần văn Đ là người đã có nhiều tiền án tiền sự về tội trộm cắp tài sản, cướp giật tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nhưng Đ chưa bao giờ phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản. Sau khi ra tù, Đ rủ Hoàng Công N, Bùi Như B bắt cóc cháu Trịnh Hồng Q nhằm chiếm đoạt tài sản. Vậy trường hợp phạm tội của Trần Văn Đ có phải là “có tính chất chuyên nghiệp hay không” ? Quan điểm thứ nhất cho rằng, mặc dù Đ mới lần đầu tham gia việc bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, nhưng Đ đã lấy việc phạm tội là phương tiện kiếm sống, nên phải coi trường hợp bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản của Đ là có tính chất chuyên nghiệp. Quan đểm thứ hai cho rằng, tình tiết “có tính chất chuyên nghiệp” là tình tiết định khung hình phạt đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản nên cần phải hiểu “tính chất chuyên nghiệp” là của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản chứ không phải là của tội phạm nói chung. Tuy nhiên, Trần Văn Đ phạm tội thuộc trường hợp có tình tiết tăng nặng “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự. Theo chúng tôi, quan điểm thứ hai không chỉ đúng về lý luận mà còn phù hợp với thực tiễn xét xử.
c.Tái phạm nguy hiểm
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp tái phạm nguy hiểm đối với tội cướp tài sản và cũng hoàn toàn giống với tái phạm nguy hiểm là tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự. Vì tình tiết này thuộc về nhân thân người phạm tội. Các dấu hiệu về tái phạm nguy hiểm được quy định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự, chỉ cần người phạm tội đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý hoặc đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý. Các tội phạm quy định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự là tội phạm bất kỳ.
Tuy nhiên về lý luận vẫn còn ý kiến cho rằng, tình tiết tái phạm nguy hiểm quy định là tình tiết định khung hình phạt của tội phạm nào thì tội phạm mà người phạm tội đã bị kết án, đã tái phạm phải là tội phạm quy định trong điều luật đó. Ví dụ: Tình tiết tái phạm nguy hiểm quy định tại điểm c khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự phải thoả mãn điều kiện như: Người phạm tội đã bị kết án về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản quy định tại khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự chưa được xoá án tích mà lại phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự. Cho dù có thể còn những ý kiến khác nhau, nhưng thực tiễn xét xử nhiều năm qua đã khẳng định tình tiết tái phạm nguy hiểm là tình tiết định khung hình phạt nói chung là trường hợp tái phạm được quy định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự. Vì vậy, khi xác định thế nào là tái phạm nguy hiểm phải căn cứ vào các quy định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt nếu các tình tiết khác như nhau, thì người phạm tội đã bị kết án về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản quy định tại khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự chưa được xoá án tích mà lại phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự sẽ bị phạt phải nặng hơn trường hợp tái phạm nguy hiểm khác.
d.Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản có sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội cướp tài sản có sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác quy định tại điểm d khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản người phạm tội có thể sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác đối với con tin hoặc có thể đối với người thân của con tin hoăc người khác, tức là để chiếm đoạt được tài sản người phạm tội đã sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác đối với bất kỳ người nào có liên quan đến hành vi phạm tội của họ, kể cả trường hợp sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác để tẩu thoát.
đ.Phạm tội đối với trẻ em
Phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản đối với trẻ em là trường hợp người phạm tội bắt cóc trẻ em làm con tin hoặc tuy không bắt cóc trẻ em làm con tin nhưng chiếm đoạt tài sản của trẻ em bằng thủ đoạn bắt cóc người thân của trẻ em để buộc trẻ em phải nộp tiền chuộc. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử người phạm tội chủ yếu bắt cóc trẻ em làm con tin để cha mẹ, hoặc người thân phải nộp cho chúng một khoản tiền chuộc.
Trẻ em, theo quy định tại Điều 1 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thì người dưới 16 tuổi là trẻ em.
Phạm tội đối với trẻ em được coi là trường hợp phạm tội nguy hiểm hơn trường hợp phạm tội đối với người đã thành niên, không chỉ xuất phát từ quan điểm bảo vệ trẻ em là bảo vệ tương lai của đất nước, bảo vệ lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mà còn bảo vệ những người không có khả năng tự vệ.
Tình tiết “phạm tội đối với trẻ em” không chỉ là yếu tố định khung hình phạt mà trong nhiều trường hợp nó là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự . Vì vậy, khi đã áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự đối với người phạm tội thì không coi đây là tình tiết tăng nặng khi quyết định hình phạt nữa.
Việc xác định tuổi của người được xác định là trẻ em là một yêu cầu bắt buộc của các cơ quan tiến hành tố tụng. Hồ sơ vụ án nhất thiết phải có giấy khai sinh của người bị hại là trẻ em, nếu không có giấy khai sinh thì phải có các tài liệu chứng minh người bị hại là người chưa đến 16 tuổi. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử có nhiều trường hợp việc xác định tuổi của người bị hại gặp rất nhiều khó khăn, các cơ quan tiến hành tố tụng đã áp dụng hết mọi biện pháp nhưng vẫn không xác định được tuổi của người bị hại. Vậy trong trường hợp này, cách tính tuổi của người bị hại như thế nào ? Hiện nay có hai ý kiến trái ngược nhau: ý kiến thứ nhất cho rằng, nếu không biết ngày sinh thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó, nếu không biết tháng sinh thì lấy tháng cuối cùng của năm đó, cách tính này là không có lợi cho ngời phạm tội. Còn ý kiến thứ hai thì cho rằng, nếu không biết ngày sinh thì lấy ngày đầu tiên của tháng đó, nếu không biết tháng sinh thì lấy tháng cuối cùng của năm đó, cách tính này theo hướng có lợi cho người phạm tội. Để có căn cứ xác định tuổi của người bị hại nhất là người bị hại lại là trẻ em, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần có hướng dẫn cụ thể.
Phạm tội đối với trẻ em không phải là tình tiết thuộc ý thức chủ quan của người phạm tội mà là tình tiết khách quan, do đó không cần người phạm tội phải nhân thức được hoặc buộc họ phải nhận thức được đối tượng mà mình xâm phạm là trẻ em thì mới coi là tình tiết tăng nặng, mà chỉ cần xác định người mà người phạm tội xâm phạm là trẻ em thì người phạm tội đã bị coi là phạm tội đối với trẻ em rồi.
Khi quyết định hình phạt, nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì trẻ em càng ít tuổi, sự kháng cự càng yếu ớt thì mức hình phạt càng nặng; trường hợp bắt cóc trẻ em làm con tin sẽ bị phạt nặng hơn trường hợp buộc trẻ em nộp tiền chuộc.
e.Phạm tội đối với nhiều người
Phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản đối với nhiều người là trường hợp người phạm tội bắt cóc từ hai người trở lên làm con tin hoặc buộc từ hai người trở lên phải nộp tiền chuộc. Tuy nhiên, thực tiến xét xử chủ yếu người phạm tội bắt cóc nhiều người làm con tin và trường hợp này nguy hiểm trường hợp buộc nhiều người nộp tiền chuộc.
Nếu trong những người bị bắt cóc hoặc bị buộc phải nộp tiền chuộc mà có người là trẻ em thì người phạm tội phải bị tuy cứu trách nhiệm hình sự về hai điểm ( điểm đ và điểm e) khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự và mức hình phạt phải nặng hơn trường hợp chỉ có một tình tiết, nếu các tình tiết káhc của vụ án giống nhau.
g.Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người bị làm con tin mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%
Đây là trường hợp người phạm tội trong quá trình thực hiện tội phạm bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản đã gây thương tích cho người bị bắt cóc làm con tin mà có tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%. Hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của con tin bằng nhiều phương pháp và thủ đoạn khác nhau như: đánh đập, tra khảo, bắt nhịn đói, nhịn khát, bỏ rét, giam cầm.v.v…
Căn cứ xác định tỷ lệ thương tật của người bị bắt làm con tin là kết luận của Hội đồng giám định pháp y. Vì vậy, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các cơ quan tiến hành tố tụng nếu thấy người bị bắt cóc làm con tin bị thương tích hoặc bị tổn hại đến sức khoẻ, thì nhất thiết phải trừng cầu giám định pháp y để xác định tỷ lệ thương tật. Nếu người bị bắt cóc làm con tin từ chối giám định và việc giám định không thực hiện được thì không buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo điểm g khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự . Tuy nhiên, trong một số trường hợp căn cứ vào bảng tiêu chẩn thương tật được ban hành kèm theo Thông tư liên Bộ số 12/TTLB ngày 26-7-1995 của Bộ Y tế và Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội mà rõ ràng xác định được tỷ lệ thương tật của người bi bắt làm con tin từ 11% đến 30% và địa phương đó không tổ chức được Hội đồng giám định pháp ý thì các cơ quan tiến hành tố tụng có thể vẫn buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo điểm g khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự. Ví dụ: Người bị bắt cóc bị tra tấn làm điếc một tai hoàn toàn, theo bảng thương tật trên quy định có tỷ lệ thương tật là 21% đến 25 %, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm g khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự nếu như địa phương nơi xảy ra vụ án không tổ chức được Hội đồng giám định pháp y.
Trường hợp phạm tội này chỉ căn cứ vào thương tích hoặc tổn hại đến sức khoẻ của người bị bắt làm con tin, còn đối với người khác nếu người phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khoẻ thì tuỳ trường hợp cụ thể mà người phạm tội có thể còn bị truy cứu thêm về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác theo quy định tại Điều 104 Bộ luật hình sự. Ví dụ: Theo sự thoả thuận giữa người phạm tội và người thân của người bị bắt làm con tin về thời gian địa điểm giao tiền chuộc, nhưng sau khi đã đặt tiền chuộc vào vị trí quy định, người thân của người bị bắt cóc đã gọi điện thoại di động báo cho Công an đến bắt bọn tống tiền nhưng đã để cho bọn tống tiền phát hiện nên chúng đã tấn công người giao tièn làm cho người này bị thương tích có tỷ lệ thương tật 21%. Ngoài tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự thêm tội cố ý gây thương tích cho người khác theo khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự.
h.Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi tiệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng
Đây là trường hợp người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản có giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng, không phụ thuộc vào việc người phạm tội đã lấy được tài sản hay chưa. Bởi lẽ, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là tội cấu thành hình thức, nên chỉ cần có căn cứ xác định người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản có giá trị 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng là người phạm tội đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm h khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự rồi. Ví dụ: Vũ Văn H, Đoàn Công V và Phạm Quốc T bàn bạc bắt cóc cháu Hoàng Kim A mới 4 tuổi là con của anh Hoàng Đức G chủ tiệm vàng “Kim Ngân” để buộc anh G phải nộp cho chúng 20 lượng vàng 9999 ( bốn số chín), thì chúng mới thả cháu Kim A. Vì lo sợ cháu Kim A bị chúng hành hạ nên anh G đã nhận lời nộp vàng cho chúng, nhưng các chiến sỹ Công an đã bố trí bắt gọn bon chúng giải thoát cho cháu Kim A, trong khi chúng đang chuẩn bị nhận 20 lượng vàng của anh G. Mặc dù Vũ Văn H, Đoàn Công V và Phạm Quốc T chưa lấy được 20 lượng vàng nhưng chúng vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự với hai tình tiết định khung là phạm tội đối với trẻ em và chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng ( giá trị 20 lượng vàng tương đường với 100.000.000 đồng).
i.Gây hậu quả nghiêm trọng
Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản gây hậu quả nghiêm trọng là trường hợp do hành vi phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản nên đã gây ra những thiệt hại khác ngoài những thiệt hại đã được quy định là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt. Những thiệt hại này gọi chung là “hậu quả nghiêm trọng”. Hậu quả nghiêm trọng do hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản gây ra cũng phải tương đương với các tình tiết định khung quy định tại khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự vì nó cũng là một tình tiết được quy định trong cùng một khung hình phạt. Căn cứ vào các quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự, qua thực tiến xét xử có thể coi những thiệt hại sau là hậu quả nghiêm trọng do hành vi phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản gây ra:
– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%;
– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người chưa đến 11% nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người đó cộng lại từ 11% đến 30%;
– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật dưới 11% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị dưới 50.000.000 đồng, ngoài giá trị tài sản bị chiếm đoạt;
– Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng, nhưng không phải là tài sản bị chiếm đoạt;
– Ngoài những thiệt hại sức khoẻ hoặc tài sản có thể xác định được như đã nêu trên, còn những thiệt hại phi vật chất cũng cần được xác định để đánh giá hậu quả do hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản gây ra, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội; gây hoang mang cho nhiều người trên một địa bàn nhất định, làm cho nhiều người vì quá sợ hãi nên phải bỏ học, bỏ việc làm, không dám lao động sản xuất, không dám buôn bán.v.v… Những thiệt hại phi vật chất, đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải căn cứ vào từng vụ án cụ thể, trong một hoàn cảnh cụ thể, xảy ra ở một địa bàn cụ thể, mới có thể xác định được chính xác.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt, cần chú ý một số điểm sau:
Nếu người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có tình tiết tăng nặng nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới năm năm tù) nhưng không được dưới hai năm tù. Việc cho người phạm tội được hưởng án treo phải rất thận trọng và phải đảm bảo đúng các quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự.
Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì:
– Người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 134 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự. Ví dụ: A phạm tội đối với trẻ em; còn B phạm tội có tính chất chuyên nghiệp và tái phạm nguy hiểm thì hình phạt của B phải nặng hơn hình phạt đối với A;
– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự sẽ được áp dụng hình phạt thấp hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ;
– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự sẽ bị áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết tăng nặng;
– Người bị bắt cóc làm con tin có tỷ lệ thương tật càng cao thì hình phạt đối với người phạm tội càng nặng và ngược lại;
– Thiệt hại về tài sản, tinh thần càng lớn, hình phạt càng nặng và ngược lại;
– Người phạm tội bồi thường được càng nhiều tài sản bị chiếm đoạt thì mức hình phạt càng được giảm so với người phạm tội chỉ bồi thường hoặc chỉ bồi thường không đáng kể.
3.Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự
a.Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người bị làm con tin mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%
Trường hợp phạm tội này tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm g khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ người bị bắt làm con tin trường hợp này có tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%. Đây là tỷ lệ thương tật nặng, nên tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội lớn. Cũng như đối với trường hợp quy định tại điểm g khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự, việc xác định tỷ lệ thương tật của người bị bắt cóc làm con tin phải do Hội đồng giám định pháp y, nơi nào không có Hội đồng giám định pháp y thì mới căn cứ vào bảng tiêu chuẩn thương tật được ban hành kèm theo Thông tư liên Bộ số 12/TTLB ngày 26-7-1995 của Bộ Y tế và Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội.
b.Chiếm đoạt tài sản có gía trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm e khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ tài sản bị chiếm đoạt ở mức từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng. Đây là giá trị tài sản bị chiếm đoạt rất lớn và cũng như trường hợp phạm tội quy định tại điểm e khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự, chỉ cần xác định người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng chứ không nhất thiết phải xác định người phạm tội đã chiếm đoạt được hay chưa. Tuy nhiên, nếu người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản có giá trị như trên thì tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cao hơn trường hợp người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản có giá trị như trên.
c.Gây hậu quả rất nghiêm trọng
Trương hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm i khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ hậu quả mà người phạm tội gây ra trong trường hợp này là hậu quả rất nghiêm trọng. Hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản gây ra cũng phải tương đương với các tình tiết định khung quy định tại khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự vì nó cũng là một tình tiết được quy định trong cùng một khung hình phạt. Căn cứ vào các quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự, qua thực tiễn xét xử có thể coi những thiệt hại sau đây là hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt gây ra:
– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%;
– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người chưa đến 31% nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người đó cộng lại từ 31% đến 60%;
– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị dưới 200.000.000 đồng, ngoài giá trị tài sản bị chiếm đoạt;
– Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, nhưng không phải là tài sản bị chiếm đoạt;
– Ngoài những thiệt hại về về tính mạng, sức khoẻ hoặc tài sản có thể xác định được như đã nêu trên, còn những thiệt hại phi vật chất cũng cần được xác định để đánh giá hậu quả do hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản gây ra, như ảnh hưởng rất xấu đến việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng rất xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội; gây hoang mang cho nhiều người trên một địa bàn nhất định, làm cho nhiều người vì quá sợ hãi nên phải bỏ học, bỏ việc làm, không dám lao động sản xuất, không dám buôn bán.v.v… Những thiệt hại phi vật chất, đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải căn cứ vào từng vụ án cụ thể, trong một hoàn cảnh cụ thể, xảy ra ở một địa bàn cụ thể, mới có thể xác định được chính xác.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ mười năm đến mười tám năm, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt, cần chú ý một số điểm sau:
Nếu người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có tình tiết tăng nặng nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới mười năm tù) nhưng không được dưới năm năm tù.
Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì:
– Người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 134 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự. Ví dụ: A phạm tội chiếm đoạt ba trăm triệu đồng, còn B phạm tội chiếm đoạt ba trăm triệu đồng và còn gây thương tích cho con tin có tỷ lệ thương tật 41% thì hình phạt của B phải nặng hơn hình phạt đối với A;
– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự sẽ được áp dụng hình phạt thấp hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ;
– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự sẽ bị áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết tăng nặng;
– Người bị bắt cóc làm con tin có tỷ lệ thương tật càng cao thì hình phạt đối với người phạm tội càng nặng và ngược lại;
– Thiệt hại về tài sản, tinh thần càng lớn, hình phạt càng nặng và ngược lại;
– Người phạm tội bồi thường được càng nhiều tài sản bị chiếm đoạt thì mức hình phạt càng được giảm so với người phạm tội chỉ bồi thường hoặc chỉ bồi thường không đáng kể.
4.Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự
a.Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người bị làm con tin mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm g khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ người bị bắt làm con tin trường hợp này có tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên. Đây là tỷ lệ thương tật rất nặng, nên tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội rất lớn. Cũng như đối với trường hợp quy định tại điểm g khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự, việc xác định tỷ lệ thương tật của người bị bắt cóc làm con tin phải do Hội đồng giám định pháp y, nơi nào không có Hội đồng giám định pháp y thì mới căn cứ vào bảng tiêu chuẩn thương tật được ban hành kèm theo Thông tư liên Bộ số 12/TTLB ngày 26-7-1995 của Bộ Y tế và Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội.
b.Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản làm chết người
Người bị chết trong trường hợp này là người bị bắt làm con tin, nguyên nhân bị chết không phải là là do người phạm tội trực tiếp gây ra, nếu người phạm tội có hành vi tước đoạt tính mạng người bị bắt làm con tin, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự thêm tội giết người. Thông thường người bị chết trong trường hợp này là do bị bỏ đói, bỏ khát hoặc do bị trói ở trong rừng bị thú dữ tấn công nên bị chết… cái chết của người bị hại người phạm tội không lường trước được, ngoài ý muốn của người phạm tội.
c.Chiếm đoạt tài sản có gía trị từ năm trăm triệu đồng trở lên
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm e khoản 2 và điểm b khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên. Đây là giá trị tài sản bị chiếm đoạt đặc biệt lớn và cũng như trường hợp phạm tội quy định tại điểm e khoản 2 và điểm b khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự, chỉ cần xác định người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng chứ không nhất thiết phải xác định người phạm tội đã chiếm đoạt được hay chưa. Tuy nhiên, nếu người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản có giá trị như trên thì tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cao hơn trường hợp người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản có giá trị như trên.
d.Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng
Trương hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm i khoản 2 và điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ hậu quả mà người phạm tội gây ra trong trường hợp này là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản gây ra cũng phải tương đương với các tình tiết định khung quy định tại khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự vì nó cũng là một tình tiết định khung hình phạt được quy định trong một khung. Căn cứ vào các quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự, qua thực iễn xét xử có thể coi những thiệt hại sau đây là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt gây ra:
– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người;
– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người chưa đến 61% nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người đó cộng lại từ 61% trở lên;
– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị dưới 500.000.000 đồng, ngoài giá trị tài sản bị chiếm đoạt;
– Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 500.000.000 đồng trở lên, nhưng không phải là tài sản bị chiếm đoạt;
– Ngoài những thiệt hại về về tính mạng, sức khoẻ hoặc tài sản có thể xác định được như đã nêu trên, còn những thiệt hại phi vật chất cũng cần được xác định để đánh giá hậu quả do hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản gây ra, như ảnh hưởng rất xấu đến việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng rất xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội; gây hoang mang cho rất nhiều người trên một địa bàn nhất định, làm cho rất nhiều người vì quá sợ hãi nên phải bỏ học, bỏ việc làm, không dám lao động sản xuất, không dám buôn bán.v.v… Những thiệt hại phi vật chất, đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải căn cứ vào từng vụ án cụ thể, trong một hoàn cảnh cụ thể, xảy ra ở một địa bàn cụ thể, mới có thể xác định được chính xác.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân và cũng là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt, cần chú ý:
Nếu người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có tình tiết tăng nặng nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới mười lăm năm năm tù) nhưng không được dưới mười năm tù.
Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì:
– Người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 134 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự. Ví dụ: A phạm tội chiếm đoạt năm trăm triệu đồng, còn B phạm tội chiếm đoạt năm trăm triệu đồng và còn gây thương tích cho con tin có tỷ lệ thương tật 61% thì hình phạt của B phải nặng hơn hình phạt đối với A;
– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự sẽ được áp dụng hình phạt thấp hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ;
– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự sẽ bị áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết tăng nặng;
– Người bị bắt cóc làm con tin có tỷ lệ thương tật càng cao thì hình phạt đối với người phạm tội càng nặng và ngược lại;
– Thiệt hại về tài sản, tinh thần càng lớn, hình phạt càng nặng và ngược lại;
– Người phạm tội bồi thường được càng nhiều tài sản bị chiếm đoạt thì mức hình phạt càng được giảm so với người phạm tội chỉ bồi thường hoặc chỉ bồi thường không đáng kể.
5.Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản
Theo quy định tại khoản 5 Điều 134 Bộ luật hình sự thì ngoài hình phạt chính, người phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm.
So với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản của công dân quy định tại Điều 152 Bộ luật hình sự năm 1985 thì hình phạt bổ sung đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều điểm được sửa đổi bổ sung.
Hình phạt tiền là loại hình phạt mới được quy định đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, mức phạt tiền là từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, có thể nói đây là khung hình phạt tiền đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản. Vì vậy, nếu Toà án áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với người phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản thì không được phạt trên một trăm triệu đồng, nhưng nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự thì có thể phạt dưới mười triệu đồng nhưng không được dưới một triệu đồng vì theo quy định tại khoản 3 Điều 30 Bộ luật hình sự mức phạt tiền không được dưới một triệu đồng.
Việc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản của người phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản phải chú đến các quy định tại Điều 40 Bộ luật hình sự về loại hình phạt này. Chỉ tịch thu tài sản thuộc quyền sở hữu của người phạm tội, không tịch thu các loại tài sản là đồ trang sức, vật kỷ niệm của người phạm tội. Nếu tịch thu toàn bộ tài sản thì vẫn phải để cho người phạm tội và gia đình họ có điều kiện sinh sống.
Khi áp dụng hình phạt cấm cư trú đối với người phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản cần quyết định hình phạt rõ cấm cư trú ở địa phương cụ thể nào ( xã, phường, thị trấn, huyện, quận, thị xã, tỉnh, thành phố ) không nên cấm một cách chung chung là “cấm bị cáo cư trú ở thành phố, thị xã…” Nói chung nếu đã áp dụng hình phạt quản chế đối với người phạm tội thì không áp dụng hình phạt cấm cư trú đối với họ nữa vì nội dung của hình phạt quản chế là cư trú bắt buộc, dưới sự kiểm soát của chính quyền và nhân dân địa phương, không được tự ý ra khỏi nơi cư trú, bị tước một số quyền công dân và bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định.
Tham khảo thêm:
- Đề 3 Hình sự 1 – Tội bắt cóc chiếm đoạt tài sản – Các tội xâm phạm sở hữu
- Phân tích Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước
- Phân tích Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản
- Mối quan hệ giữa chuẩn mực pháp luật và chuẩn mực thẩm mỹ
- A 22 tuổi, M 21 tuổi, hai người yêu nhau được 2 năm, trong thời gian yêu nhau, A và M nhiều lần có hành vi quan hệ tình dục
- A trộm cắp tài sản của H trị giá 300 triệu đồng Hành vi của A được quy định tại điểm a khoản 3 Điều 138 BLHS
- Khái niệm năng lực hành vi dân sự
- Mức độ xác định, tình trạng năng lực hành vi dân sự của cá nhân
- Đánh giá các quy định của BLDS năm 2005 về năng lực hành vi dân sự cá nhân
- Khái niệm quyết định hành chính
- Vai trò của quyết định hành chính trong quản lí hành chính nhà nước