Thủ tục đầu tư theo Luật đầu tư 2014 và sự phát triển của Luật Đầu tư 2014 so với Luật Đầu tư 2005.
Đầu tư là một lĩnh vực kinh doanh thương mại được Nhà nước quan tâm, chú trọng nhằm phát triển kinh tế – xã hội. Pháp luật đầu tư cũng luôn có những thay đổi để phù hợp hơn tình hình kinh tế – xã hội đất nước và khuyến khích các nhà đầu tư đầu tư vào Việt Nam. Luật Đầu tư 2014 có hiệu lực, thay thế Luật Đầu tư 2005 đã đánh dấu bước thay đổi và phát triển vượt bậc trong chủ trương cải cách thủ tục hành chính. Trong đó phải kể đến những thay đổi trong trình tự, thủ tục đầu tư đã thể hiện rõ việc cải cách thủ tục hành chính luôn gắn liền với việc nâng cao trách nhiệm của nhà đầu tư trong việc triển khai thực hiện dự án đầu tư. Vậy, để tìm hiểu về thủ tục đầu tư theo Luật đầu tư 2014 và qua đó đánh giá sự thay đổi và phát triển của Luật Đầu tư 2014 so với Luật Đầu tư 2005, phần trình bày dưới đây sẽ làm rõ vấn đề này.
I. KHÁI QUÁT VỀ ĐẦU TƯ VÀ THỦ TỤC ĐẦU TƯ.
Từ 01/07/2015 Luật Đầu tư 2014 có hiệu lực thay thế Luật Đầu tư 2005. Luật Đầu tư 2014 không còn phân biệt giữa đầu tư trực tiếp và gián tiếp, sử dụng khái niệm “Đầu tư kinh doanh” để thay thế 2 khái niệm trước đây là “Đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp”.
Đầu tư kinh doanh là việc nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư để thực hiện hoạt động kinh doanh thông qua việc thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế; đầu tư theo hình thức hợp đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư.
Khi nhà đầu tư muốn triển khai dự án trên thực tế, tùy từng dự án cụ thể mà nhà đầu tư có thể phải thực hiện thủ tục quyết định chủ trương đầu tư, thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng kí đầu tư. Trong quá trình thực hiện dự án trên thực tế, vì lý do khác nhau mà nhà đầu tư có thể thực hiện các thủ tục liên quan đến giãn tiến độ thực hiện dự án, tạm ngừng hoạt động của dự án… Tất cả những thủ tục đó được gọi chung là thủ tục đầu tư.
II. THỦ TỤC ĐẦU TƯ TẠI VIỆT NAM THEO LUẬT ĐẦU TƯ NĂM 2014
Để một dự án đầu tư muốn được triển khai trên lãnh thổ Việt Nam, thông thường nhà đầu tư sẽ phải xem xét rằng dự án đó có thuộc trường hợp phải quyết định chủ trương đầu tư hay thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng kí đầu tư hay không để thực hiện trước khi triển khai dự án trên thực tế. Khi đáp ứng đủ các điều kiện để thực hiện dự án đầu tư thì trong quá trình đầu tư nhà đầu tư đôi khi cũng sẽ phải thực hiện những thủ tục liên quan như : kí quỹ, giãn tiến độ, tạm ngừng hoạt động dự án…
1. Vấn đề pháp lý cơ bản của thủ tục quyết định chủ trương đầu tư.
Theo quy định của Luật Đầu tư 2014, các dự án phải làm thủ tục quyết định chủ trương đầu tư được quy định tại Điều 30, 31 và 32, lần lượt tương ứng với thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Đối với những dự án thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Quốc hội, là những dự án có ảnh hưởng lớn đến môi trường hoặc tiềm ẩn khả năng ảnh hưởng lớn đến môi trường, chuyển mục đích sử dụng đất với những loại đất đặc biệt như đất vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên,… hoặc sử dụng đất với diện tích lớn, tác đông lớn đến bộ phận dân cư, tác động động rất lớn đến kinh tế – xã hội thì phải được cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất quyết định chủ trương đầu tư.
Đối với những dự án thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Thủ tường Chính phủ tuy mức độ tác động không lớn như các dự án thuộc thẩm quyền của Quốc hội nhưng do ảnh hưởng của nó đến kinh tế – xã hộ nên vẫn cần chủ thể có thẩm quyền là Thủ thưởng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư, như đối với các lĩnh vực: cảng hàng không; vận tải hàng không; cảng biển quốc gia; thăm dò, khai thác, chế biến dầu khí; kinh doanh cá cược, đặt cược, casino; sản xuất thuốc lá điếu; xây dựng và kinh doanh sân gôn; hoặc dự án có quy mô vốn đầu tư từ 5.000 tỷ đồng trở lên…
Cùng với Quối hội và Thủ tướng Chính Phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cũng có thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư đối với những dự án có ảnh hưởng thấp hơn đến kinh tế xã hội theo quy định tại khoản 1 Điều 32 Luật đầu tư năm 2014. Khi dự án của nhà đầu tư thuộc những trường hợp luật định phải quyết định chủ trương đầu tư, nhà đầu tư nộp hồ sơ dự án đầu tư cho cơ quan quản lý đầu tư có thẩm quyền. Nếu dự án đầu tư thuộc thẩm quyền quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thì sau 35 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ dự án đầu tư thì cơ quan đăng kí đầu tư sẽ thông báo kết quả cho nhà đầu tư. Tuy nhiên đối với dự án thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ hiện nay pháp luật chưa quy định về thời gian cụ thể thông báo kết quả cho nhà đầu tư.
2. Vấn đề pháp lý cơ bản của thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng kí đầu tư
Cũng như thủ tục quyết định chủ trương đầu tư, Luật Đầu tư 2014 quy định không phải mọi dự án đầu tư tại Việt Nam đều phải xin cấp Giấy chứng nhận đăng kí đầu tư, mà chỉ những dự án theo pháp luật quy định phải có Giấy chứng nhận đăng kí đầu tư mới phải làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận đăng kí đầu tư. Căn cứ vào Khoản 1 và Khoản 2 Điều 36 Luật đầu tư năm 2014 quy định về các trường hợp phải thực hiện và không phải thực hiện thủ tục xin cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư:
“1. Các trường hợp phải thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư:
a) Dự án đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài;
b) Dự án đầu tư của tổ chức kinh tế quy định tại khoản 1 Điều 23 của Luật này.
2. Các trường hợp không phải thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư:
a) Dự án đầu tư của nhà đầu tư trong nước;
b) Dự án đầu tư của tổ chức kinh tế quy định tại khoản 2 Điều 23 của Luật này;
c) Đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế.”
Như vậy, chỉ những dự án đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài và dự án đầu tư của tổ chức kinh tế theo quy định tại khoản 1 Điều 23 Luật đầu tư năm 2014 bắt buộc phải thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng kí đầu tư. Tuy nhiên, căn cứ vào Khoản 4 Điều 36 Luật Đầu tư 2014, những dự án thuộc trường hợp không bắt buộc thực hiện thủ tục xin cấp Giấy chứng nhận đăng kí đầu tư vẫn có thể thực hiện thủ tục để được cấp Giấy chứng nhận đăng kí đầu tư nếu nhà đầu tư có nhu cầu.
Để được cấp Giấy chứng nhận đăng kí đầu tư, nhà đầu tư nộp hồ sơ cho cơ quan đăng kí đầu tư theo quy định của pháp luật. Căn cứ vào Điều 37 Luật Đầu tư 2014, khi nhận đủ hồ sơ thì cơ quan đăng kí đầu tư sẽ cấp Giấy chứng nhận đăng kí đầu tư cho nhà đầu tư sau 15 ngày. Đối với dự án thuộc trường hợp phải làm thủ tục quyết định chủ trương đầu tư thì Giấy chứng nhận đăng kí đầu tư sẽ được cấp sau 5 ngày làm việc kể từ khi cơ quan đăng kí đầu tư nhận được văn bản chấp thuận đầu tư. Vậy, nhà đầu tư chỉ phải nộp hồ sơ 1 lần đối với dự án phải xin cấp chủ trương đầu tư. Quy định này đã tạo thuận lợi cho nhà đầu tư trong quá trình thực hiện các thủ tục đầu tư. Thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng kí đầu tư theo quy định tại Điều 38 Luật Đầu tư 2014 là Ban quản lý khu kinh tế đặc biệt và Sở Kế hoạch đầu tư với những dự án đầu tư theo quy định của Luật này.
3. Một số thủ tục triển khai dự án đầu tư
– Kí quỹ để bảo đảm thực hiện dự án :
Đối với dự án đầu tư được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất thì nhà đầu tư sẽ phải kí quỹ lũy tiến từng phần từ 1% đến 3% tùy theo vốn đầu tư của dự án theo quy định tại khoản 3 Điều 27 Nghị đình 118/2015/NĐ-CP của Chính Phủ quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật Đầu tư 2014. Tuy nhiên, không phải mọi dự án được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư đểu phải kí quỹ mà có một số ngoại lệ quy định tại khoản 1 Điều 27 Nghị đình 118/2015/NĐ-CP. Khi nhà đầu tư kí quỹ thì tùy thuộc vào từng dự án cụ thể mà khoản tiền kí quỹ sẽ được hoàn trả lại cho nhà đầu tư theo từng trường hợp cụ thể.
– Thủ tục giãn tiến độ thực hiện dự án :
Căn cứ vào Điều 46 Luật Đầu tư 2014, Nhà đầu tư phải đề xuất bằng văn bản cho cơ quan đăng ký đầu tư khi giãn tiến độ thực hiện vốn đầu tư, tiến độ xây dựng và đưa công trình chính vào hoạt động (nếu có); tiến độ thực hiện các mục tiêu hoạt động của dự án đầu tư đối với các dự án được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư hoặc quyết định chủ trương đầu tư. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được đề xuất, cơ quan đăng ký đầu tư có ý kiến bằng văn bản về việc giãn tiến độ đầu tư.
Đối với dự án được cơ quan đăng ký đầu tư co phép giãn tiến độ thì tổng thời gian dự án được giãn tiến độ là không quá 24 tháng, trường hợp bất khả kháng thì thời gian khắc phục hậu quả bất khả kháng không tính vào thời gian giãn tiến độ đầu tư.
– Thủ tục tạm ngừng hoạt động của dự án đầu tư :
Trong quá trình triển khai dự án đầu tư trên thực tế, vì rất nhiều lý do khác nhau mà nhà đầu tư phải tạm ngừng thực hiện dự án đầu tư thì nhà đầu tư phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan đăng ký đầu tư. Lý do tạm ngừng dự án đầu tư là rất khác nhau nhưng nếu dự án đầu tư do bất khả kháng (thiên tai, lũ lụt, hỏa hoạn…) thì căn cứ vào Điều 47 Luật Đầu tư 2014, nhà đầu tư được tạm ngừng hoạt động của dự án và được miễn tiền thuê đất trong thời gian tạm ngừng hoạt động để khắc phục hậu quả do bất khả kháng gây ra.
III. THỦ TỤC ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI THEO LUẬT ĐẦU TƯ NĂM 2014
Cũng giống như hoạt động đầu tư tại Việt Nam thì hoạt động đầu tư ra nước ngoài có 2 thủ tục chủ yếu là thủ tục quyết định chủ trương đầu tư và thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng kí đầu tư ra nước ngoài.
1. Vấn đề pháp lý cơ bản của thủ tục quyết định chủ trương đầu tư
Việc quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài theo Luật Đầu tư 2014 thuộc về 2 chủ thể là Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ. Trường hợp dự án đầu tư ra nước ngoài phải được Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư chỉ bao gồm 2 dự án là dự án có vốn đầu tư ra nước ngoài từ 20.000 tỷ đồng trở lên và dự án yêu cầu áp dụng cơ chế, chính sách đặc biệt cần được Quốc hội quyết định được quy định tại Khoản 1 Điều 54 Luật Đầu tư 2014. Trường hợp phải được Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trường đầu tư cũng chỉ đối với 2 dự án là dự án thuộc lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, báo chí, phát thanh, truyền hình, viễn thông có vốn đầu tư ra nước ngoài từ 400 tỷ đồng trở lên; dự án đầu tư không thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản này có vốn đầu tư ra nước ngoài từ 800 tỷ đồng trở lên theo quy định tại Khoản 2 Điều 54 Luật Đầu tư 2014 .
Về mặt thủ tục, Căn cứ vào Điều 55,56 Luật Đầu tư 2014, đối với các dự án phải cấp chủ trương đầu tư, nhà đầu tư làm hồ sơ theo quy định của pháp luật gửi tới cơ quan tiếp nhận hồ sơ là Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Bộ Kế hoạc đầu tư tổ chức thẩm định và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.
2. Vấn đề pháp lý cơ bản của thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài
Thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng kí đầu tư ra nước ngoài được áp dụng với tất cả các dự án đầu tư ra nước ngoài trừ trường hợp chuyển ngoại tệ hoặc hàng hóa, máy móc, thiết bị ra nước ngoài để phục vụ cho hoạt động khảo sát, nghiên cứu, thăm dò thị trường và thực hiện hoạt động chuẩn bị đầu tư khác theo quy định của Chính phủ. Căn cứ vào Điều 59 Luật Đầu tư 2014, thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng kí đầu tư ra nước ngoài được quy định là của Bộ kế hoạch và đầu tư. Theo đó, trừ trường hợp dự án phải quyết định chủ trương đầu tư được cấp giấy chứng nhận đăng kí đầu tư sau 5 ngày kể từ ngày được quyết định chủ trương, đối với các dự án đầu tư ra nước ngoài khác, nhà đầu tư phải làm hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận đầu tư cho Bộ Kế hoạch đầu tư theo quy định để được xem xét cấp giấy chứng đăng kí đầu tư. Nếu hồ sơ hợp lệ, thì Bộ kế hoạch đầu tư sẽ cấp giấy chứng nhận đăng kí đầu tư cho nhà đầu tư trong khoảng thời gian 15 ngày kể từ ngày nhận hồ sơ hoàn chỉnh.
IV. ĐÁNH GIÁ THAY ĐỔI, PHÁT TRIỂN CỦA LUẬT ĐẦU TƯ 2014 SO VỚI LUẬT ĐẦU TƯ 2005
1. Đối với thủ tục đầu tư trong nước
So với Luật Đầu tư 2005, Luật Đầu tư 2014 đã cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính theo hướng minh bạch, đơn giản và bảo đảm hiệu quả quản lý nhà nước về đầu tư với những nội dung sửa đổi, bổ sung quan trọng, gồm:
Luật Đầu tư 2014 đã thu hẹp phạm vi áp dụng cấp giấy chứng nhận đăng kí đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài. Cụ thể, theo Luật đầu tư 2005 tất cả các dự án đầu tư có vốn nước ngoài không xác định tỷ lệ vốn của nhà đầu tư nước ngoài tại doanh nghiệp vẫn phải làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng kí đầu tư. Nay Luật Đầu tư 2014 quy định đối với các dự án nhà đầu tư nước ngoài hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài góp vốn 51% vốn điều lệ mới phải xin cấp Giấy chứng nhận đăng kí đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài. Đây là một bước mở nhằm góp phần thu hút khuyến khích đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Ngoài ra, Luật Đầu tư 2014 đã có sự thay đổi so với Luật Đầu tư 2005 về trường hợp không phải thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng kí đầu tư. Luật Đầu tư 2014 đã bãi bỏ thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với nhà đầu tư trong nước. Bên cạnh đó, Luật Đầu tư 2014 cũng đã đơn giản hoá hồ sơ, trình tự, thủ tục và rút ngắn thời gian thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài với thời hạn tối đa 15 ngày thay cho 45 ngày như trước đây trong quy định của Luật Đầu tư 2005. Đây là một cải cách mạnh mẽ giúp đơn giản hóa thủ tục và giúp các nhà đầu tư trong nước đẩy mạnh và chủ động thực hiện các hoạt động đầu tư trong lãnh thổ quốc gia.
Mặc dù, Luật Đầu tư năm 2014 đã cải cách mạnh thủ tục đầu tư theo hướng thay thủ tục thẩm tra cấp Giấy chứng nhận đầu tư đối với lĩnh vực đầu tư có điều kiện bằng thủ tục đăng ký cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư và không yêu cầu lấy ý kiến thẩm tra của các bộ, ngành. Cùng với đó, đầu mục hồ sơ đăng ký đầu tư được giảm thiểu đáng kể theo hướng không yêu cầu nhà đầu tư phải chuẩn bị các tài liệu như: giải trình kinh tế – kỹ thuật, giải trình đáp ứng điều kiện… để tạo thuận lợi và giảm thời gian, thủ tục cho nhà đầu tư.Tuy nhiên, trên thực tế, một số văn bản quy phạm pháp luật được ban hành trước thời điểm Luật Đầu tư năm 2014 có hiệu lực, vẫn yêu cầu thực hiện một số thủ tục khác trong quá trình cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. Điều này dẫn đến xung đột giữa các văn bản quy phạm pháp luật, gây khó khăn cho doanh nghiệp, nhà đầu tư và cơ quan đăng ký đầu tư. Cụ thể, như theo quy định tại khoản 2 Điều 25 Luật Bảo vệ môi trường 2014 quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường là căn cứ để cấp có thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư dự án hoặc cấp Giấy chứng nhận đầu tư.Việc yêu cầu nhà đầu tư phải thực hiện thủ tục phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường trước thời điểm quyết định chủ trương đầu tư hoặc cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư là không phù hợp với thực tế triển khai dự án đầu tư vì tại thời điểm này, nhà đầu tư mới đề xuất địa điểm và chưa có dự án đầu tư được phê duyệt nên không có đủ căn cứ để lập Báo cáo đánh giá tác động môi trường. Điều này tạo rủi ro rất lớn về chi phí đầu tư cho nhà đầu tư trong trường hợp dự án đầu tư không được chấp thuận vì những lý do không liên quan đến môi trường hoặc buộc phải thay đổi địa điểm thực hiện dự án….
2. Đối với thủ tục đầu tư ra nước ngoài
Các quy định về vấn đề này theo Luật Đầu tư được thiết kế trên cơ sở sửa đổi, bổ sung một số nội dung tương ứng của Luật Đầu tư 2005; đồng thời, luật hóa và hoàn thiện một số quy định tại Nghị định 78/2006/NĐ-CP, ngày 9/8/2006 của Chính phủ về đầu tư ra nước ngoài. Theo đó, Luật Đầu tư 2014 khẳng định nguyên tắc nhà đầu tư được thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài nhằm khai thác, phát triển, mở rộng thị trường; tăng khả năng xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ, thu ngoại tệ; tiếp cận công nghệ hiện đại, nâng cao năng lực quản lý và bổ sung nguồn lực phát triển kinh tế đất nước; hoạt động đầu tư ra nước ngoài phải tuân thủ quy định của Luật này, pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; nhà đầu tư tự chịu trách nhiệm về hiệu quả hoạt động đầu tư.
Luật cũng quy định trách nhiệm của nhà đầu tư trong việc huy động các nguồn vốn (bao gồm cả ngoại tệ) để thực hiện hoạt động đầu tư ở nước ngoài; xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của nhà đầu tư, cũng như cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước và các cơ quan liên quan trong việc quyết định đầu tư, quản lý hoạt động đầu tư ở nước ngoài; đồng thời, bổ sung một số quy định về thủ tục triển khai hoạt động đầu tư ra nước ngoài nhằm tạo cơ chế giám sát và quản lý chặt chẽ nguồn vốn chuyển ra nước ngoài để thực hiện hoạt động đầu tư.
Vậy, với những trình bày đã được nêu ra, có thể thấy, Luật Đầu tư 2014 được đánh giá là có sự thay đổi và phát triển hơn hẳn so với Luật Đầu tư 2005 trước đây. Với những quy định về thủ tục đầu tư đối với đầu tư trong được cải cách mạnh mẽ, đơn giản hóa về thủ tục đã góp phần giúp cho hoạt động đầu tư của nhà đầu tư thông thoáng hơn rất nhiều. Đối với đầu tư ra nước ngoài, các thủ tục đầu tư xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của nhà đầu tư, đồng thời tạo cơ chế giám sát và quản lý chặt chẽ nguồn vốn chuyển ra nước ngoài để thực hiện hoạt động đầu tư. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn những vướng mắc trong khuôn khổ pháp lý liên quan đến thủ tục chưa phù hợp, tạo rủi ro cho nhà đầu tư mà cần được sửa đổi cho thống nhất giữa Luật Đầu tư 2014 và các văn bản khác có liên quan.
Tham khảo thêm:
- Phân tích nguyên tắc tham vấn người khuyết tật và việc cụ thể hóa trong pháp luật người khuyết tật ở Việt Nam
- Xác định chế độ hưởng của người khuyết tật dưới 6 tuổi
- Phân tích các cơ sở khi quy định các điều kiện chi ngân sách nhà nước theo Luật ngân sách nhà nước 2015 , thực trạng áp dụng các điều kiện chi ngân sách nhà nước từ năm 2015 và ý kiến pháp lý của nhóm về tính khả thi theo luật ngân sách nhà nước 2015
- Phân tích và bình luận các quy định về các trường hợp miễn trừ trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng trong thương mại
- Phân tích Điều 25 của CISG – Bình luận về thực tiễn giải quyết các tranh chấp liên quan tới điều khoản này
- Bình luận những quy định của pháp luật Việt Nam (Bộ luật Dân sự 2005 và Bộ luật dân sự 2015) trong việc giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài
- Phân tích, đánh giá những điểm mới của BLTTDS 2015 về Thẩm quyền của Tòa án
- Tìm hiểu việc thực thi chính sách tiền tệ quốc gia của Việt Nam trong giai đoạn cuối năm 2015 trở lại đây và đề xuất ý kiến pháp lý
- Các quy định trong bộ Luật Dân sự năm 2005 về bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân
- Chuyển nhượng dự án đầu tư có sử dụng đất của tổ chức kinh tế Việt Nam cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án đầu tư tại Việt Nam