Tố cáo người không có vi phạm thì có phạm tội vu khống không

Câu hỏi của khách hàng: Tố cáo người không có vi phạm thì có phạm tội vu khống không

Chào các luật sư. Tôi xin hỏi tôi có hợp đồng miệng làm việc với người ta. Tôi đã gia công nhưng chưa lắp đặt. Giờ họ không lắp nữa và vợ tôi bức xúc có đăng face chửi người đó. Họ đến cơ quan công an trình báo và kiện cả 2 vợ chồng tôi. Lên cơ quan công an họ xác minh chỉ vợ tôi sai phạm. Bên bị hại họ bắt vợ tôi bồi thường danh dự 20 triệu. Vợ tôi không chịu thì họ đưa đơn sang viện kiểm soát. Giờ vợ chồng tôi phải làm thế nào. Và kiện tôi lên cơ quan công an mà tôi không sai phạm có bị tội vu khống tôi không.


Luật sư Tư vấn Bộ luật hình sự – Gọi 1900.0191

Dựa trên thông tin được cung cấp và căn cứ vào các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, các cam kết, thỏa thuận quốc tế được ký kết nhân danh Nhà nước, Chính phủ Việt Nam.

1./ Thời điểm tư vấn: 30/11/2018

2./ Cơ sở Pháp Luật điều chỉnh vấn đề Điều kiện để tố cáo người có hành vi vu khống

  • Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017)
  • Bộ luật dân sự năm 2015
  • Nghị định 72/2018/NĐ-CP quy định mức lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang

3./ Luật sư trả lời Tố cáo người không có vi phạm thì có phạm tội vu khống không

Cùng với sự phát triển của mạng viễn thông, internet. Các trang thông tin điện tử, mạng xã hội cũng ngày càng nhiều người tham gia. Những cá nhân tham gia bên cạnh việc nắm bắt thông tin còn giúp chia sẻ, lan truyền thông tin ngay cả khi không biết thông tin đó có đúng sự thật không. Điều này gây ảnh hưởng lớn tới người bị tiết lộ thông tin. Để hạn chế những thông tin mang tính thất thiệt, bịa đặt, pháp luật Việt Nam có những quy định về xử phạt những người có hành vi vu khống.

Căn cứ Điều 156 Bộ luật hình sự:

“Điều 156. Tội vu khống

1.Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:

a)Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác;

b)Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền. …

Theo đó, một người chỉ bị coi là phạm tội vu khống khi có hành vi “bịa đặt hoặc lan truyền những điều biết rõ là sai sự thật” hoặc “bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ”. Tức là, nếu bạn chứng minh được thông tin mà vợ của bạn đưa lên facebook không phải do bịa đặt, phía cơ quan chức năng không có căn cứ chứng minh được vợ của bạn biết những thông tin đó là sai sự thật nhưng vẫn loan truyền, đăng tải thông tin thì vợ của bạn sẽ chỉ bị xử lý hành chính. Việc bồi thường cho bên kia được tiến hành theo thỏa thuận của hai bên, bên kia không có quyền ép buộc gia đình bạn phải bồi thường bao nhiêu. Tuy nhiên, khi hai bên không thỏa thuận được mức bồi thường cụ thể thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết. Mức bồi thường lúc này sẽ do Tòa án quyết định dựa trên những căn cứ mà các bên đưa ra được, như thiệt hại thực tế mà bên kia chứng minh được trước Tòa,…

Trong trường hợp vợ của bạn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội vu khống thì việc gia đình bạn có bồi thường thiệt hại hay không sẽ là căn cứ để cơ quan chức năng xem xét giảm nhẹ trách nhiệm cho vợ của bạn.

Tuy nhiên bạn cần chú ý, việc công an tiến hành điều tra, lấy lời khai không đồng nghĩa với việc vợ của bạn phạm tội vu khống theo pháp luật hình sự. Bởi, nếu nhận thấy có yếu tố hình sự thì công an xã sẽ phải chuyển tới các cơ quan điều tra có thẩm quyền để tiến hành điều tra, truy tố, xét xử. Chỉ trong trường hợp vụ án không phải là vụ án hình sự thì phía công an mới được tự xử phạt, bởi lúc này, việc xử phạt mang tính chất hành chính.

Ngoài ra, trong trường hợp bạn có căn cứ cho rằng bên kia biết về việc bạn không liên quan đến hành vi đăng tải thông tin lên facebook của vợ bạn nhưng vẫn tố cáo bạn trước cơ quan chức năng thì bạn cũng có thể tố cáo lại những người này về hành vi vu khống để cơ quan chức năng có thể tiến hành điều tra và xử lý theo quy định.

Căn cứ Điều 592 Bộ luật dân sự thì vợ của bạn có trách nhiệm bồi thường cho chủ thể kia những thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm. Khoản tiền bồi thường đó được xác định gồm những khoản thiệt hại thực tế:

-Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại;

-Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút;

-Và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà chủ thể đó gánh chịu (nếu bên bị ảnh hưởng là cá nhân, nhóm cá nhân). Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần sẽ do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định. Mức lương cơ sở do nhà nước quy định tại thời điểm này là 1.390.000 đồng/tháng (căn cứ Khoản 2 Điều 3 Nghị định 72/2018/NĐ-CP).

Như vậy, trong trường hợp của bạn, bạn cần tìm kiếm những chứng cứ có thể chứng minh được việc bội ước của phía bên kia cũng như các thông tin liên quan để có thể bảo vệ quyền lợi của vợ bạn và bạn. Việc bồi thường sẽ do hai bên tự thỏa thuận. Và bạn hoàn toàn có thể tố cáo người đó về tội vu khống nếu có chứng cứ chứng minh nhận định của bạn đồng ý.

Với những tư vấn trên, Công ty Luật LVN mong rằng đã có thể giải đáp được nhu cầu của quý khách, nếu quý khách vẫn còn chưa rõ hoặc có thông tin mới với trường hợp này, quý khách có thể liên hệ Bộ phận Tư vấn pháp luật Miễn phí số: 1900.0191 để được Luật sư hỗ trợ ngay lập tức.

1900.0191