Câu hỏi được gửi từ khách hàng: Nên hiểu thế nào về mục B.2 quy định về thừa kế, tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất trong Nghị quyết 02/2004?
Các anh chị cho em hỏi quy định sau đây tại nghị quyết 02/2004 phải hiểu như thế nào ạ? em cảm ơn!
“b.2) Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà tại thời điểm giao kết vi phạm các điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 và điểm a.6 tiểu mục 2.3 mục 2 này, nhưng sau đó đã được Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003 mà có phát sinh tranh chấp và từ ngày 01/7/2004 mới có yêu cầu Toà án giải quyết, thì không coi là hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện này.”
– a.4) Đất chuyển nhượng đã được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003;
– a.6) Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được lập thành văn bản có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền.
Luật sư Tư vấn Luật Đất đai – Gọi 1900.0191
Dựa trên những thông tin được cung cấp và căn cứ vào các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, các cam kết, thỏa thuận quốc tế được ký kết nhân danh Nhà nước, Chính phủ Việt Nam. Chúng tôi đưa ra trả lời như sau:
1./ Thời điểm pháp lý
Ngày 13 tháng 06 năm 2018
2./ Cơ sở Pháp Luật liên quan tới vấn đề Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập từ sau này 15/10/1993 theo nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP
- Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao Hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình
- Luật Đất đai 2003
3./ Luật sư tư vấn
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất giao đất và quyền sử dụng cho bên nhận chuyển nhượng, còn bên nhận chuyển nhượng trả tiền cho bên chuyển nhượng. Theo Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP, việc giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập từ sau ngày 15/10/1993 được thực hiện như sau:
Căn cứ Tiểu mục 2.3 Mục 2 Phần II Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP quy định về việc giải quyết tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập sau ngày 15/10/1993 như sau:
“2.3. Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập từ sau này 15/10/1993
a) Điều kiện để công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Theo qui định tại Điều 131, các điều từ Điều 705 đến Điều 707 và Điều 711 của Bộ luật Dân sự, khoản 2 Điều 3, Điều 30, Điều 31 của Luật Đất đai năm 1993 và khoản 1 Điều 106, điểm b khoản 1 Điều 127, khoản 1 Điều 146 của Luật Đất đai năm 2003, thì Toà án chỉ công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất khi hợp đồng đó có đầy đủ các điều kiện sau đây:
a.1. Người tham gia giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có năng lực hành vi dân sự;
a.2. Người tham gia giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoàn toàn tự nguyện;
a.3. Mục đích và nội dung của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không trái pháp luật, đạo đức xã hội;
a.4. Đất chuyển nhượng đã được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003;
a.5. Bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có đủ điều kiện chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có đủ điều kiện về nhận chuyển nhượng theo qui định của pháp luật;
a.6. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được lập thành văn bản có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền.
b) Xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không có đầy đủ các điều kiện được hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 2.3 mục 2 này.
b.1. Đối với hợp đồng được giao kết trước ngày 01/7/2004 vi phạm điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 tiểu mục 2.3 mục 2 này, nhưng đã có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất được quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003, mà có phát sinh tranh chấp, nếu từ ngày 01/7/2004 mới có yêu cầu Toà án giải quyết, thì không coi là hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện này.
b.2. Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà tại thời điểm giao kết vi phạm các điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 và điểm a.6 tiểu mục 2, 3 mục 2 này, nhưng sau đó đã được Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003 mà có phát sinh tranh chấp và từ ngày 01/7/2004 mới có yêu cầu Toà án giải quyết, thì không coi là hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện này.
b.3. Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vi phạm điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 và điểm a.6 tiểu mục 2.3 mục 2 này, nếu sau khi thực hiện hợp đồng chuyển nhượng, bên nhận chuyển nhượng đã trồng cây lâu năm, đã làm nhà kiên cố… và bên chuyển nhượng không phản đối và cũng không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo các quy định của Nhà nước về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, thì Toà án công nhận hợp đồng. Nếu bên nhận chuyển nhượng chỉ làm nhà trên một phần đất, thì Toà án công nhận phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng phần đất có nhà ở và huỷ phần hợp đồng đối với diện tích đất còn lại, buộc bên nhận chuyển nhượng giao trả phần đất đó cho bên chuyển nhượng, trừ trường hợp việc giao trả không bảo đảm mục đích sử dụng cho cả hai bên giao kết hợp đồng, đồng thời buộc các bên thanh toán cho nhau phần chênh lệch.
c) Việc giải quyết hậu quả của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu.
c.1. Khi xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu, thì tuỳ từng trường hợp Toà án áp dụng quy định của điều luật tương ứng từ Điều 136 đến Điều 138, từ Điều 140 đến Điều 145 và Điều 146 của Bộ luật Dân sự để xác định thời hạn yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu và xử lý hậu quả của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu.
c.2. Xác định lỗi, xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Việc xác định lỗi, xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại được thực hiện theo hướng dẫn tại điểm a và điểm b tiểu mục 2.4 mục 2 Phần I của Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao “Hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình”
c.3. Xác định thiệt hại.
– Khi tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu thì Toà án cần xác định thiệt hại gồm:
Khoản tiền mà bên chuyển nhượng phải bỏ ra để khôi phục lại tình trạng ban đầu của diện tích đất do bên nhận chuyển nhượng đã làm huỷ hoại đất; khoản tiền mà bên nhận chuyển nhượng đã đầu tư để cải tạo làm tăng giá trị quyền sử dụng đất, giá trị công trình, tài sản, cây lâu năm… trên đất. Trong trường hợp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không có thoả thuận khác về việc áp dụng biện pháp phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại quy định tại Điều 379 Bộ luật Dân sự để bảo đảm thực hiện hợp đồng thì thiệt hại còn bao gồm khoản tiền chênh lệch giá trị quyền sử dụng đất do các bên thoả thuận với giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm xét xử sơ thẩm hoặc các thiệt hại khác, nếu có.
– Để xác định đúng các thiệt hại nói trên, Toà án phải tiến hành định giá giá trị quyền sử dụng đất và xác định thiệt hại về đất như sau:
Nếu các đương sự không thoả thuận được về giá trị quyền sử dụng đất và giá trị thiệt hại, thì Toà án yêu cầu cơ quan chuyên môn định giá hoặc ra quyết định thành lập hội đồng định giá. Giá trị quyền sử dụng đất được xác định theo giá thị trường chuyển nhượng tại địa phương nơi đất đang tranh chấp đối với từng loại đất vào thời điểm xét xử sơ thẩm.
Trong trường hợp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có quy định giá trị quyền sử dụng đất cụ thể phù hợp với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo giá thị trường tại địa phương hoặc các trung tâm giao dịch bất động sản hoạt động hợp pháp có niêm yết giá giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại địa phương vào thời điểm xét xử sơ thẩm, thì Toà án có thể căn cứ vào giá do Uỷ ban nhân dân quy định hoặc giá niêm yết của các trung tâm giao dịch để xác định giá trị quyền sử dụng đất, mà không nhất thiết phải thành lập hội đồng định giá. Trong trường hợp này cần phải có căn cứ xác định giá quyền sử dụng đất do Uỷ ban nhân dân quy định hoặc giá quyền sử dụng đất do trung tâm giao dịch bất động sản niêm yết là hoàn toàn phù hợp với giá thị trường vào thời điểm xét xử sơ thẩm.
– Trách nhiệm chịu chi phí cho việc định giá do các đương sự phải chịu chi phí tương ứng với phần nghĩa vụ của họ. Trường hợp đương sự có yêu cầu định giá lại, thì người có yêu cầu phải tạm ứng trước chi phí cho việc định giá lại và Toà án sẽ quyết định ai phải chịu chi phí định giá tuỳ thuộc vào kết quả xét xử.“
Theo đó, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập sau ngày 15/10/1993 được Tòa án công nhận và có hiệu lực pháp luật phải có đầy đủ các điều kiện đã nêu ở Điểm a Tiểu mục 2.3 Mục 2 bao gồm:
– Người tham gia giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có năng lực hành vi dân sự;
– Người tham gia giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoàn toàn tự nguyện;
– Mục đích và nội dung của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không trái pháp luật, đạo đức xã hội;
– Đất chuyển nhượng đã được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003 có thể hiểu là đất chuyển nhượng thông qua hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất xác lập từ sau ngày 15/10/1993 đã được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật đất đai có hiệu lực tại thời điểm cấp giấy chứng nhận;
– Bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có đủ điều kiện chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có đủ điều kiện về nhận chuyển nhượng theo qui định của pháp luật;
– Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được lập thành văn bản có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền: Điều kiện này liên quan đến hình thức của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Trên cơ sở pháp luật đất đai, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cần đáp ứng điều kiện về hình thức là được lập thành văn bản và được công chứng hoặc chứng thực hợp đồng.
Các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giao kết từ ngày 15/10/1993 không đáp ứng các điều kiện nêu trên được coi là hợp đồng vô hiệu. Tuy nhiên, theo Điểm b Tiểu mục 2.3 Mục 2 nêu trên, với các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất xác lập sau ngày 15/10/1993 mà không đủ các điều kiện nêu trên vẫn có thể có hiệu lực trong đó Điểm b.2 nêu trên là một ngoại lệ.
Nội dung cơ bản của Điểm b.2 là trường hợp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không có đầy đủ các điều kiện nhưng vẫn được coi là có hiệu lực. Khi mà: Tại thời điểm giao kết hợp đồng, đất đai hay bất động sản được ghi trong hợp đồng vi phạm điều kiện về đất chuyển nhượng chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và hợp đồng chuyển nhượng vi phạm hình thức chưa được công chứng, chứng thực. Nhưng, sau đó, sau khi Ủy ban nhân dân xem xét thấy đất có đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các giấy tờ quy định tại Khoản 1, 2 và 5 Điều 50 Luật đất đai 2003 thì Ủy ban nhân dân sẽ cấp cho bên sở hữu đất giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các giấy tờ quy định tại Khoản 1, 2 và 5 Điều 50 Luật đất đai 2003. Khi này, nếu có tranh chấp phát sinh đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và có yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp từ ngày 01/07/2004 thì hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất này vẫn được coi là có hiệu lực, các quyền và nghĩa vụ liên quan đến hợp đồng vẫn có hiệu lực áp dụng đối với các bên.
Như vậy, việc hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không đầy đủ điều kiện theo quy định nhưng hợp đồng này vẫn có thể có hiệu lực nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điểm b Tiều mục 2.3 Mục 2 Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP.
Với những tư vấn về câu hỏi Nên hiểu thế nào về mục B.2 quy định về thừa kế, tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất trong Nghị quyết 02/2004?, Công ty Luật LVN mong rằng đã có thể giải đáp được nhu cầu của quý khách, nếu quý khách vẫn còn chưa rõ hoặc có thông tin mới với trường hợp trên, quý khách có thể liên hệ Bộ phận Tư vấn pháp luật Miễn phí số: 1900.0191 để được Luật sư hỗ trợ ngay lập tức.
Bài liên quan:
- Vi phạm luật giao thông nên bị giữ đăng ký xe, nộp phạt xong thì có lấy lại được không ?
- Cảnh sát cơ động có được quyền xử phạt lỗi rẽ không xi nhan không ?
- Biên lai thu tiền phạt ghi sai năm tài khóa, không có dấu giáp lai thì có hợp lệ không?
- Khoảng 18 giờ đến 21 giờ cơ động có được phép dừng xe để kiểm tra hành chính không và nhiệm vụ của họ là gì ?
- Bị cơ động chặn xe kiểm tra giấy tờ nhưng quên mang đăng ký xe thì có bị thu xe không ?
- Sai số Chứng minh nhân dân trên Giấy Đăng ký kết hôn thì sửa lại thế nào?
- Con gái mình 6 tuổi, bị mất giấy khai sinh bản chính nhưng bị UBND phường từ chối thủ tục cấp lại thì phải làm sao?
- Xử phạt khi uống rượu đến cơ quan là bao nhiêu
- Không có gương chiếu hậu có phải lỗi vi phạm giao thông
- Người giám sát giám hộ có những quyền hạn gì