Hiệp định bảo hộ đầu tư Việt Nam-Liên minh Châu Âu (EVIPA) và đánh giả khả năng thực thi hiệp định tại Việt Nam

Hiệp định bảo hộ đầu tư Việt Nam-Liên minh Châu Âu (EVIPA) và đánh giả khả năng thực thi hiệp định tại Việt Nam.

Trong bối cảnh hội nhập diễn ra ngày càng sâu rộng, xu thế tự do hóa thương mại được xem là một điều tất yếu trong quá trình phát triển của các quốc gia trên thế giới. Sự hợp tác giữa các nền kinh tế sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Trong bối cảnh đó, Chính phủ các quốc gia chủ trương đẩy mạnh mở cửa thị trường nội địa, hợp tác kinh tế và thu hút đầu tư từ các chủ thể nước ngoài. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã dần trở thành yếu tố chiến lược cho sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, làm thế nào để thu hút vốn đầu tư nước ngoài hiệu quả luôn là vấn đề đặt ra nhiều thách thức đối với Chính phủ các quốc gia tiếp nhận đầu tư. Bởi lẽ, khi tiến hành đầu tư ra nước ngoài, các nhà đầu tư sẽ phải đối mặt với rất nhiều rủi ro, mạo hiểm về các vấn đề kinh tế, tài chính, thậm chí là chính trị của các quốc gia tiếp nhận đầu tư. Do đó, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ ưu tiên đầu tư tại các quốc gia có một hệ thống pháp luật đầu tư đồng bộ, chặt chẽ, đảm bảo quyền và lợi ích cho các nhà đầu tư nước ngoài. Hay nói cách khác, vấn đề các nhà đầu tư quan tâm nhiều nhất khi tiến hành hoạt động đầu tư ra nước ngoài đó là các biện pháp bảo hộ đầu tư tại các nước đó thông qua các điều ước quốc tế hoặc pháp luật quốc gia về đầu tư. Các biện pháp bảo hộ đầu tư càng đầy đủ, hợp lý sẽ tạo được lòng tin và tâm lý vững chắc cho nhà đầu tư nước ngoài khi lựa chọn thị trường quốc gia khác để đầu tư

Trước làn sóng ký kết các Hiệp định thương mại tự do (FTA) và Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư đang trở nên mạnh mẽ trên khắp thế giới và trở thành một xu thế mới trong quan hệ kinh tế quốc tế mà các quốc gia không thể đứng ngoài cuộc. Nhận thức rõ điều này, trong những năm qua Việt Nam rất tích cực tham gia đàm phán, ký kết các Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư cũng như các Hiệp định FTA có chứa nội dung về bảo hộ đầu tư. Đến nay, Việt Nam đã chính thức tham gia, ký kết thực hiện 14 FTA có hiệu lực và 01 FTA đã chính thức ký kết, sắp có hiệu lực, hiện đang đàm phán 02 FTA. Trong số các Hiệp định thương mại tự do gần đây Việt Nam đã tham gia ký kết, nổi bật là Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Liên minh Châu Âu (EVFTA). EVFTA có một chương riêng về bảo hộ đầu tư và đã được các bên nhất trí tách riêng thành Hiệp định Bảo hộ đầu tư Việt Nam-Liên minh Châu Âu (EVIPA). Hiệp định đã được ký kết cùng thời điểm với EVFTA tuy nhiên sẽ có hiệu lực sau khi tất cả các quốc gia thuộc Liên minh Châu Âu đồng ý thông qua. EVIPA là một bước tiến lớn trong quan hệ thương mại – đầu tư giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu. Hiệp định sẽ góp phần tạo dựng một khung pháp lý hiện đại, chi tiết và tiến bộ để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các nhà đầu tư Việt Nam và nhà đầu tư EU khi có hiệu lực và được đưa vào thực thi

Xuất phát từ những lý do nêu trên, chúng em đã lựa chọn đề tài “Hiệp định bảo hộ đầu tư Việt Nam-Liên minh Châu Âu (EVIPA) và đánh giả khả năng thực thi hiệp định tại Việt Nam” là đề tài nghiên cứu.

Chúng em xin chân thành cảm ơn!

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HỘ ĐẦU TƯ QUỐC TẾ

1.1. KHÁI QUÁT VỀ BẢO HỘ ĐẦU TƯ QUỐC TẾ

1.1.1. Các khái niệm

1.1.1.1. Khái niệm đầu tư

Theo từ điển tiếng Việt Viện ngôn ngữ học, đầu tư theo cách hiểu phổ thông là “việc bỏ nhân lực, vật lực, tài lực vào công việc gì, trên cơ sở tính toán hiệu quả kinh tế, xã hội”[1]. Vấn đề đầu tư luôn đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Thông qua hoạt động đầu tư, các quốc gia có thể huy động  được nguồn lực trong và ngoài nước để góp phần tăng trưởng kinh tế.

Khái niệm đầu tư theo kinh tế học được hiểu là “những hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế – xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó”[2]. Các kết quả đạt được có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính, tài chính vật chất, tài sản trí tuệ nguồn lực, uy tín.

Dưới góc độ pháp lý, đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn, tài sản theo các hình thức và cách thức do pháp luật quy định để thực hiện hoạt động nhằm mục đích lợi nhuận hoặc lợi ích kinh tế, xã hội khác. Hoạt động đầu tư có thể có tính chất thương mại hoặc phi thương mại. Hoạt động đầu tư mang tính chất thương mại là hoạt động đầu tư nhằm mục đích sinh lợi. Trong các chủ thể tham gia trong hoạt động đầu tư thương mại, có ít nhất một trong các bên được xác định là thương nhân và mục đích của các bên khi thực hiện hoạt động đầu tư thương mại đều là nhằm mục đích lợi nhuận. Ví dụ như một cá nhân đầu tư góp vốn vào một công ty hợp danh để hàng tháng hưởng lợi nhuận từ số vốn góp của mình. Ngược lại, hoạt động đầu tư phi thương mại là hoạt động không có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, điều đó không đồng nghĩa với việc trong quá trình hoạt động thì không có phát sinh lợi nhuận, nếu có lợi nhuận thì không được phân chia cho các thành viên của tổ chức.

Tại Việt Nam, trước khi Luật đầu tư năm 2005 được ban hành, khái niệm đầu tư chưa được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật mà chỉ có khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài được quy định tại Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 như sau: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này”[3]. Đến năm 2005, khái niệm đầu tư được quy định đầu tiên tại Luật đầu tư năm 2005 : “Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan”[4]. Khi ban hành Luật đầu tư năm 2014, khái niệm “đầu tư trực tiếp” và “đầu tư gián tiếp” được thay thế bằng khái niệm: “Đầu tư kinh doanhlà việc nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư để thực hiện hoạt động kinh doanh thông qua việc thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế; đầu tư theo hình thức hợp đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư”[5]. Cho đến khi Luật Đầu tư năm 2020 được ban hành, khái niệm đầu tư kinh doanh được quy định như sau:“Đầu tư kinh doanh là việc nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư để thực hiện hoạt động kinh doanh”[6].

Theo Hiệp định về đầu tư toàn diện trong ASEAN (ACIA), “đầu tư” nghĩa là mọi loại tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc kiểm soát bởi một nhà đầu tư, bao gồm nhưng không giới hạn như sau: Động sản và bất động sản và tài sản khác như quyền thế chấp, cho vay hoặc cầm cố; Cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá và bất kỳ hình thức tham gia khác vào một pháp nhân và quyền hoặc lợi ích phát sinh từ đó; Quyền sở hữu trí tuệ mà được cho tăng theo quy định của pháp luật và quy định của mỗi nước thành viên; Tuyên bố về tiền hoặc bất kỳ thực hiện hợp đồng liên quan đến việc kinh doanh và có giá trị tài chính; Các quyền theo hợp đồng, bao gồm trọn gói, xây dựng, quản lý, sản xuất hoặc hợp đồng chia sẻ lợi nhuận[7].

Theo Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), hoạt động hay dự án đầu tư là toàn bộ tài sản do một nhà đầu tư trực tiếp hay gián tiếp sở hữu và quản lý mang đặc điểm của một khoản đầu tư, bao gồm những đặc điểm theo đúng cam kết về vốn hoặc nguồn vốn khác, đặc điểm về mức doanh thu hay lợi nhuận kỳ vọng hoặc khả năng chấp nhận rủi ro[8].

So với quy định của các Hiệp định về đầu tư mà Việt Nam tham gia ký kết, giải thích về Đầu tư trong Luật Đầu tư của Việt Nam hiện hành còn rất là hạn hẹp trong khi đó TTP và ACIA lại nhìn nhận đầu tư bao gồm hầu hết các lĩnh vực. Trong ACIA và TTP họ xem hoạt động đầu tư không chỉ những hoạt động được liệt kê mà bao gồm tất cả những hoạt động mang tính chất đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn thực hiện với kỳ vọng thu được lợi nhuận.

1.1.1.2. Khái niệm bảo hộ đầu tư

Bảo hộ đầu tư là một thuật ngữ đề cập đến hình thức của những biện pháp bảo đảm đầu tư được thể hiện trong những quy định của pháp luật nhằm đảm bảo quyền và lơị ích chính đáng của các nhà đầu tư trong quá trình thực hiện hoạt động đầu tư với mục đích kinh doanh.

Các biện pháp bảo đảm đầu tư là những cam kết từ phía nhà nước với các nhà đầu tư về trách nhiệm của nhà nước tiếp nhận đầu tư trước một số quyền lợi cụ thể của nhà đầu tư. Các biện pháp này không những được thể hiện trong các văn bản pháp luật về đầu tư trong nước mà còn được thể hiện ở các điều ước quốc tế song phương, đa phương mà nhà nước ta tham gia ký kết và cũng được quy định rải rác ở các văn bản pháp luật ở nhiều lĩnh vực khác.[9]

Các biện pháp đảm bảo đầu tư là một trong những yếu tố quyết định đến hiệu quả của hoạt động đầu tư. Vì vậy, Việt Nam cũng như mỗi quốc gia trên thế giới đã và đang chú trọng đến việc ban hành cũng như hoàn thiện quy định pháp luật về vấn đề này để hoạt động đầu tư đạt hiệu quả cao nhất.

Sự phát triển của những quy định về bảo hộ đầu tư nước ngoài trong luật quốc tế gắn liền với những cuộc xung đột giữa các công ty đa quốc gia (MNCs) với tư cách là các nhà đầu tư nước ngoài với quốc gia nhận đầu tư. Nhà đầu tư nước ngoài luôn mong muốn không bị giới hạn trong việc chuyển những lợi nhuận và vốn đầu tư của mình về nước; được bảo vệ thích hợp trong chuyển giao công nghệ, những tài sản và quyền tài sản hợp pháp của mình trên lãnh thổ nước nhận đầu tư. Ngược lại, quốc gia nhận đầu tư lại muốn được hưởng tối đa những lợi ích trên cơ sở giữ lại những lợi nhuận của MNCs trên lãnh thổ của mình.

Việc bảo đảm về tài sản cho các nhà đầu tư đã trở thành một nguyên tắc Hiến định, theo đó, nhà nước thừa nhận quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản của mọi người và không bị quốc hữu hóa. Nhà nước chỉ được trưng mua, trưng dụng trong trường hợp thực sự cần thiết vì lí do quốc phòng, an ninh hoặc trong trường hợp khẩn cấp vì lợi ích quốc gia nhưng phải bồi thường theo giá thị trường. Với việc được ghi nhận trong một văn bản có giá trị pháp lý cao nhất là Hiến pháp đã khẳng định chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng hệ thống công cụ pháp lý để bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của Nhà đầu tư nước ngoài nhằm thu hút đầu tư vào Việt Nam.[10]

1.1.2. Đặc điểm của bảo hộ đầu tư quốc tế

1.1.2.1. Về chủ thể

Quá trình đầu tư quốc tế luôn có sự tham gia của hai bên khác quốc gia, đó là bên đầu tư và bên nhận đầu tư. Bảo hộ đầu tư quốc tế được hiểu là việc nước tiếp nhận đầu tư đưa ra những cam kết nhằm đảm bảo quyền và những lợi ích chính đáng của nhà đầu tư nước ngoài đưa vốn hoặc bất kỳ hình thức giá trị nào vào nước tiếp nhận đầu tư để thực các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ nhằm mục đích thu được lợi nhuận hoặc các đạt được các mục tiêu kinh tế xã hội. Như vậy, chủ thể trong quan hệ bảo hộ đầu tư quốc tế là nhà nước tiếp nhận đầu tư và nhà đầu tư nước ngoài.

“Nước tiếp nhận đầu tư” là quốc gia được nhà đầu tư đưa khoản đầu tư vào lãnh thổ nước mình. Thuật ngữ “lãnh thổ” theo luật quốc tế thông thường bao gồm không chỉ đất và vùng nội thủy của một quốc gia, mà còn bao gồm không gian và vùng lãnh thổ biển mà quốc gia đó có chủ quyền, và các khu vực khác mà quốc gia đó có quyền tài phán đặc quyền. Các quốc gia tiếp nhận đầu tư phải là thành viên của hiệp định đã ký kết thì mới được bảo hộ.

“Nhà đầu tư” được hiểu là cá nhân mang quốc tịch nước ngoài hoặc pháp phân nước ngoài có khoản đầu tư trên lãnh thổ của nước tiếp nhận đầu tư. Trong Hiệp định Khuyến khích và bảo hộ đầu tư Việt Nam-Hàn Quốc, thuật ngữ “nhà đầu tư” nghĩa là bất kỳ thể nhân hoặc pháp nhân nào đầu tư trên lãnh thổ của Bên Ký kết kia.[11] .Theo pháp luật Việt Nam, “nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam.”[12]. Do đó, nhà đầu tư có thể là cá nhân hoặc pháp nhân:

  • Về cá nhân: Theo quy định trong các IIA, cá nhân là công dân của một nước thành viên tham gia ký kết phù hợp với pháp luật và quy định nội địa nước đó. Do nhiều nguyên nhân khác nhau mà pháp luật các nước có thể quy định một cách cụ thể hoặc không cụ thể các điều kiện đối với một cá nhân khi tham gia quan hệ thương mại quốc tế, bảo gồm đầu tư với tư cách chủ thể. Nhưng nhìn chung, hầu hết các nước đều dựa trên hai tiêu chuẩn pháp lý liên quan trực tiếp tới cá nhân đó là: Các điều kiện về nhân thân và các điều kiện về nghề nghiệp của cá nhân.
  • Về pháp nhân: là tổ chức được nhà nước thành lập hoặc công nhận khi hội đủ các điều kiện pháp lý theo quy định của pháp luật. Pháp nhân với tư cách là chủ thể trong quan hệ thương mại quốc tế được tồn tại dưới nhiều hình thức như công ty, hãng kinh doanh,… Các tiêu chuẩn pháp lý để xác định tư cách chủ thể của pháp nhân được quy định trong luật thương mại của các nước. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, thương nhân là tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp và có quyền hoạt động trong phạm vi ngành nghề tại các địa bàn, dưới các hình thức, bằng các phương thức mà pháp luật không cấm[13]. Trên nguyên tắc tự do kinh doanh trong thương mại quốc tế, luật pháp của hầu hết các nước cho phép mọi thương nhân khi có đầy đủ điều kiện tham gia hoạt động thương mại quốc tế. Tuy nhiên do tính quan trọng và  phức tạp của hoạt động thương mại quốc tế mà pháp luật của một số nước còn đưa ra một số điều kiện bổ sung để xác định tư cách chủ thể đối với loại thương nhân này.

Trên thực tế, hầu hết các IIA quy định phạm vi áp dụng rộng đối với các nhà đầu tư là pháp nhân. Khái niệm “nhà đầu tư” là pháp nhân thường bao gồm mọi hình thức pháp nhân, không phụ thuộc vào hình thức pháp lý của tổ chức đó, bất kể là hoạt động vì lợi nhuận hay không, hoặc bất kể có phải là sở hữu tư nhân hay không. Trong Hiệp định Bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu, “pháp nhân là bất kỳ thực thể pháp lý nào được thành lập hợp pháp hoặc tổ chức theo pháp luật hiện hành, dù vì mục tiêu lợi nhuận hay không, và dù thuộc sở hữu tư nhân hay sở hữu nhà nước, bao gồm các tập đoàn, quỹ ủy thác, hợp danh, liên doanh, doanh nghiệp tư nhân hay hiệp hội.”[14] Theo Hiệp định Khuyến khích và bảo hộ đầu tư Việt Nam-Hàn Quốc, “pháp nhân nghĩa là, đối với mỗi Bên Ký kết, bất kì một thực thể nào được sáp nhập hoặc thành lập và được công nhận là một pháp nhân theo luật của Bên Ký kết đó, như các tổ chức công, tổng công ty, cơ quan có thẩm quyền, quỹ, công ty, liên doanh, hãng, cơ sở, tổ chức và hiệp hội bất kể trách nhiệm của nó là hữu hạn hay một hình thức nào khác và được tổ chức hoặc không tổ chức nhằm thu lợi nhuận.”[15]

Các IIA có thể quy định loại trừ áp dụng đối với một số loại pháp nhân dựa trên hình thức pháp lý, mục đích thành lập, hoặc cơ cấu sở hữu vốn. Hình thức pháp lý của công ty quyết định, bên cạnh những nội dung khác, chủ nợ có thể xử lý tài sản nào, hoặc trong phạm vi nào pháp nhân đó có thể bị truy cứu trách nhiệm pháp lý với tư cách của chính mình.

1.2.2.2. Về đối tượng được bảo hộ

Các IIA áp dụng đối với các khoản đầu tư do các “nhà đầu tư” của một trong các nước ký kết thực hiện trong lãnh thổ của một quốc gia ký kết khác. Các IIA thường áp dụng đối với các khoản đầu tư được thực hiện bởi cả thể nhân và pháp nhân. Khoản đầu tư do những người không nằm trong phạm vi định nghĩa “nhà đầu tư” sẽ không được áp dụng các quy định về chế tài của IIA.

Theo Công ước ICSID, khoản đầu tư là “mọi loại tài sản mà nhà đầu tư sở hữu hoặc kiểm soát, có đặc điểm của một khoản đầu tư, như cam kết về vốn hoặc các nguồn lực khác, kỳ vọng về thu nhập hoặc lợi nhuận, hoặc chấp nhận rủi ro.”[16]

Hiệp định Khuyến khích và bảo hộ đầu tư Việt Nam-Hàn Quốc quy định

“khoản đầu tư nghĩa là mọi loại tài sản được nhà đầu tư của một Bên Ký kết đầu tư trên lãnh thổ của Bên Ký kết kia, cụ thể nhưng không chỉ là:

(a)Động sản, bất động sản, kể cả các quyền tài sản khác có liên quan như cầm cố, thế chấp hoặc thế nợ;

(b)Cổ phần, chứng khoán, giấy ghi nợ và bất kỳ hình thức tham gia nào vào công ty hoặc doanh nghiệp kinh doanh;

(c)Quyền đòi tiền hoặc bất kỳ hoạt động nào có giá trị kinh tế liên quan tới đầu tư;

(d) Các quyền sở hữu trí tuệ, bao gồm quyền tác giả, nhãn hiệu thương mại, bằng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, quy trình kỹ thuật, bí quyết, bí mật thương mại, tên thương mại và đặc quyền kế nghiệp; và

(e) Bất kỳ quyền nào theo luật hoặc theo hợp đồng liên quan tới đầu tư và mọi giấy phép, chấp thuận theo luật, gồm quyền tìm kiếm, chiết xuất, nuôi trồng hoặc khai thác tài nguyên thiên nhiên”[17]

Hiệp định Khuyến khích và bảo hộ đầu tư Việt Nam-Singapore quy định:

“Khoản đầu tư là mọi loại tài sản được mỗi Bên ký kết thừa nhận phù hợp với luật pháp và những quy định của Bên ký kết đó, bao gồm chủ yếu:

(a) Động sản, bất động sản và các quyền sở hữu khác như cầm cố, thế chấp hoặc thế nợ;

(b) Cổ phiếu, chứng khoán, phiếu ghi nợ và các quyền lợi tương tự trong các công ty;

(c) Chứng quyền về tiền hoặc về các hợp đồng có giá trị kinh tế;

(d) Quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, (bằng sáng chế, nhãn hiệu thương mại, kiểu dáng công nghiệp), bí quyết, phương pháp kỹ thuật, tên thương mại và đặc quyền kế nghiệp;

(e) Tô nhượng thương mại theo luật định hoặc theo hợp đồng về thăm dò, nuôi trồng, chiết suất hoặc khai thác các tài nguyên thiên nhiên.”[18]

Thông thường, các IIA sử dụng khái niệm rộng để chỉ “mọi loại tài sản”, để cho thấy rằng mọi giá trị kinh tế đều được áp dụng IIA. Những tài sản này bao gồm:

  • Động sản, bất động sản và các quyền tài sản khác. Phạm trù này bao gồm các quyền tài sản đối với bất kỳ hàng hóa nào, cũng như quyền sở hữu đối với đất hoặc bất kỳ loại quyền lợi bất động sản nào, như thế chấp, quyền cầm giữ và cầm cố;
  • Lợi ích đối với tài sản của công ty, thí dụ như cổ phần, cổ phiếu và trái khoán: Theo các thuật ngữ này, IIA không yêu cầu nhà đầu tư phải nắm giữ một phần vốn góp tối thiểu để được bảo hộ theo IIA, và nhà đầu tư nước ngoài cũng không phải nắm giữ chức vụ kiểm soát đối với doanh nghiệp. Hơn nữa, các hình thức tham gia đầu tư khác như trái phiếu, cho vay và công cụ nợ cũng được bao gồm trong phạm trù này;
  • Yêu cầu thanh toán tiền và yêu cầu thực hiện việc nào đó theo một hợp đồng có giá trị tài chính: Phạm trù này cho thấy rằng IIA không chỉ áp dụng đối với các quyền tài sản, mà còn áp dụng đối với cả các quyền theo hợp đồng. Rất nhiều hợp đồng nêu rõ ràng các quyền có được theo hợp đồng cho phép kinh doanh (concession), bao gồm cả các hợp đồng cho phép khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên. Việc đưa các quyền theo hợp đồng vào trong khái niệm đầu tư đặt ra rất nhiều câu hỏi về việc liệu quan hệ hợp đồng cho thương mại hàng hóa và dịch vụ xuyên biên giới có thể được coi là ‘đầu tư’ cho mục đích của IIA hay không. Việc sử dụng từ ngữ chung chung như vậy dường như không có ý định hạn chế phạm vi của một IIA là chỉ áp dụng cho hợp đồng dài hạn mà trong đó, theo phạm trù này, bao gồm mọi khoản đầu tư gián tiếp;
  • Quyền sở hữu trí tuệ: Nhóm này bao gồm nhãn hiệu hàng hóa, bí mật thương mại, bằng sáng chế và quyền tác giả. Một số BIT quy định rõ ràng là bao gồm cả quy trình kỹ thuật, bí quyết, chỉ dẫn địa lý và vị thế thương mại, từ đó cho thấy IIA cũng áp dụng đối với các loại quyền sở hữu trí tuệ mới. Không có yêu cầu rõ ràng rằng các quyền này phải được đăng ký hoặc có được theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư.
1.2.2.3. Về hình thức bảo hộ đầu tư

Hình thức bảo hộ đầu tư là những cam kết của các quốc gia tiếp nhận đầu tư nhằm đảm bảo quyền và những lợi ích chính đáng của nhà đầu tư nước ngoài đưa vốn hoặc bất kỳ hình thức giá trị nào vào nước mình để thực các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ nhằm mục đích thu được lợi nhuận hoặc các đạt được các mục tiêu kinh tế xã hội được ghi nhận trong các điều ước quốc tế và trong pháp luật quốc gia. Cam kết của của các quốc gia bao gồm các nguyên tắc và biện pháp bảo hộ đầu tư. Các nguyên tắc bảo hộ đầu tư bao gồm:

  • Nguyên tắc không phân biệt đối xử;
  • Nguyên tắc đối xử công bằng và thỏa đáng (PET);
  • Nguyên tắc bảo hộ đầy đủ và an ninh (FPS).

Theo pháp luật Việt Nam, nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được bảo hộ bằng những biện pháp đảm bảo đầu tư do Nhà nước ban hành, cụ thể là đảm bảo quyền sở hữu tài sản, bảo đảm hoạt động đầu tư kinh doanh, bảo đảm quyền chuyển tài sản ra nước ngoài, bảo đảm đầu tư kinh doanh trong trường hợp có thay đổi pháp luật.[19]

Theo Hiệp định Khuyến khích và bảo hộ đầu tư Việt Nam-Hàn Quốc, “các khoản đầu tư của nhà đầu tư mỗi Bên Ký kết sẽ luôn được hưởng sự đối xử công bằng, thỏa đáng và được bảo hộ đầy đủ, an toàn trên lãnh thổ của Bên Ký kết kia.[20]

Trong Hiệp định Đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA) bao gồm rất nhiều các quy định nhằm đảm bảo quyền lợi cho cho các nhà đầu tư nước ngoài và các khoản đầu tư của họ khi đầu tư vào một nước ASEAN, trong đó có các quy định về đối xử công bằng và thỏa đáng, tự do chuyển tiền (vốn, lợi nhuận..) ra nước ngoài, đảm bảo an ninh, an toàn, không bị trưng thu trưng dụng tài sản bất hợp lý…

1.2. HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO HỘ ĐẦU TƯ

1.2.1. Điều ước quốc tế

Khái niệm điều ước quốc tế về đầu tư được định nghĩa tại Nghị định 31/2021/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật đầu tư. Theo đó, khoản 5 Điều 2 Nghị định 31/2021/NĐ-CP quy định:

“ Điều ước quốc tế về đầu tư là điều ước quốc tế có hiệu lực đối với Việt Nam mà Nhà nước hoặc Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, trong đó quy định quyền và nghĩa vụ của Nhà nước hoặc Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với hoạt động đầu tư của nhà đầu tư thuộc quốc gia hoặc vùng lãnh thổ là thành viên của điều ước đó, gồm:

a) Các hiệp định song phương và đa phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư;

b) Các hiệp định thương mại tự do và các thỏa thuận hội nhập kinh tế khu vực khác;

c) Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được ký ngày 07 tháng 11 năm 2006;

d) Các điều ước quốc tế khác quy định quyền và nghĩa vụ của Nhà nước hoặc Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam liên quan đến hoạt động đầu tư.”

Có thể thấy, trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày một sâu rộng như hiện nay, các quốc gia chú trọng tham gia đàm phán và ký kết các Hiệp định song phương và khu vực với phạm vi hợp tác rộng hơn, mức tự do hóa cao hơn. Các điều ước quốc tế về bảo hộ đầu tư chủ yếu được quy định trong các Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư và các Hiệp định thương mại tự do.

1.2.1.1. Các điều ước quốc tế song phương

Các quốc gia có thông lệ bảo hộ đầu tư nước ngoài thông qua các hiệp ước đầu tư, được gọi là hiệp ước đầu tư song phương (BIT – Bilateral Investment Treaties). Hiện tại, BIT là một nguồn bảo hộ đầu tư quan trọng, đây là một loại hiệp định được thỏa thuận bởi hai quốc gia có mục đích thúc đẩy và bảo hộ các khoản đầu tư trên lãnh thổ của một quốc gia ký kết (quốc gia tiếp nhận đầu tư) do các nhà đầu tư từ quốc gia ký kết khi thực hiện. BIT đầu tiên trên thế giới được ký kết giữa Đức và Pakistan vào năm 1959. Tính đến thời điểm hiện tại, có hơn 2.700 BIT có hiệu lực, được ký kết không chỉ giữa các quốc gia phát triển và đang phát triển mà còn giữa các quốc gia đang phát triển với nhau hoặc giữa các quốc gia phát triển. 

Mặc dù không phải tất cả các BIT đều có nội dung giống nhau, nhưng hầu hết chúng đều chứa đựng các điều khoản liên quan đến định nghĩa về đầu tư và nhà đầu, các tiêu chuẩn đối xử và cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia hoặc giữa các nhà đầu tư nước ngoài và quốc gia tiếp nhận đầu tư. Cụ thể, nội dung chính của các BIT là tập trung trước hết vào vấn đề bảo hộ đầu tư, chống lại các hành động tước đoạt quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, đảm bảo quyền chuyển tiền ra nước ngoài và quy định các cơ chế giải quyết tranh chấp.

Theo thống kê của Trung tâm WTO, tính đến năm 2021, Việt Nam đã ký kết 84 BITs với các quốc gia và vùng lãnh thổ. Những hiệp định mà Việt Nam ký kết chủ yếu quy định về việc đảm bảo các nguyên tắc trong thương mại quốc tế như nguyên tắc đối xử quốc gia và nguyên tắc tối huệ quốc cũng như đảm bảo an toàn trong hoạt động và quyền lợi đầu tư của nhà đầu tư của các thành viên hiệp định. Bên cạnh các BITs, Việt Nam cũng tham gia ký kết các hiệp định thương mại tự do (FTA) có chứa các chương quy định về bảo hộ đầu tư. Tính đến nay, Việt Nam đã ký kết 15 hiệp định FTA theo như thống kê của Trung tâm WTO. Đây cũng được coi là một nguồn luật quan trọng về bảo hộ đầu tư cho các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam

1.2.1.2. Các điều ước quốc tế đa phương 

Một trong những điều ước quốc tế đa phương quan trọng về bảo hộ đầu tư mà Việt Nam đã tham gia ký kết đó là Hiệp định TRIMS của WTO và Hiệp định ACIA của ASEAn

  • Hiệp định các biện pháp đầu tư có liên quan đến thương mại (TRIMs)

TRIMs (The Agreement on Trade-Related Investment Measures) là các biện pháp liên quan đến thương mại bao gồm các quy định của nước nhận đầu tư đối với đầu tư nước ngoài có tác động tới các luồng trao đổi hàng hóa nhập khẩu có tính phù hợp cao đối với vấn đề tiếp nhận đầu tư giữa các nước.

Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs) là một trong các hiệp định của WTO mà các thành viên gia nhập tổ chức này phải ký kết. Hiệp định TRIMS có hiệu lực từ ngày 1-1-1995. Năm 1995, các nước thành viên WTO, trong đó có Việt Nam ký kết Hiệp định TRIMS chấp nhận ràng buộc rằng các biện pháp TRIMS của nước mình phải phù hợp với GATT (tiền thân của WTO); các thành viên của tổ chức WTO có ba tháng để khai báo TRIMS của mình cho WTO, có hai năm để loại bỏ các ràng buộc không tương thích với các quy định của WTO, và thời gian quá độ là năm năm để thực hiện loại bỏ ràng buộc.

Nội dung cơ bản của hiệp định quy định các quyền và nghĩa vụ của các nước thành viên trong việc sử dụng các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại, mà cụ thể là thương mại hàng hoá.    

  • Hiệp định Đầu tư Toàn diện ASEAN (ACIA)

Hiệp định Đầu tư Toàn diện ASEAN (ACIA) được biết đến là một hiệp định thay thế cho Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ Đầu tư ASEAN (IGA) 1987 và Hiệp định Khu vực đầu tư ASEAN (AIA) 1998. Hiệp định Đầu tư Toàn diện ASEAN (ACIA) ra đời nhằm mục tiêu tăng cường hợp tác của các nước trong khu vực Đông Nam Á và tạo ra một môi trường đầu tư thuận lợi, thu hút đầu tư nước ngoài vào các nước thuộc ASEAN và cũng là để phù hợp hơn với tầm nhìn của một cộng đồng kinh tế ASEAN thống nhất, năng động so với hai hiệp đinh trước kia.

Hiệp định gồm 4 nội dung chính, bao gồm vấn đề bảo hộ đầu tư trên lãnh thổ các nước ASEAN. Hiệp định bảo hộ cho tất cả các lĩnh vực, hình thức đầu tư và chỉ bảo hộ cho các khoản đầu tư sau khi thành lập, trừ các biện pháp gây ảnh hưởng đến thương mại dịch vụ trong phạm vi quy định của Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ mà các nước thành viên trong khối ASEAN áp dụng. Vì mục đích bảo hộ đầu tư liên quan đến việc cung cấp dịch vụ theo phương thức hiện diện thương mại các quy định về đối xử đầu tư và bồi thường trong trường hợp mất ổn định; chuyển tiền; tịch biên và bồi thường; thế quyền và các quy định về giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư và nước thành viên sẽ được áp dụng. Và cần lưu ý rằng tùy từng trường hợp cụ thể việc áp dụng các quy định này có thể sẽ điều chỉnh cho phù hợp với tình hình và theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá nghĩa vụ cam kết trong hiệp định ACIA.

1.2.2. Tập quán quốc tế

Tập quán quốc tế là những quy tắc xử sự được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong quan hệ giữa các quốc gia. Tập quán quốc tế được hình thành từ nghị quyết của các tổ chức quốc tế, phán quyết của toà án quốc tế, điều ước quốc tế. Tập quán quốc tế có thể là các quy tắc xử sự không thành văn được hình thành từ thực tiễn quan hệ quốc tế hoặc được chính thức ghi nhận trong các văn kiện giữa các quốc gia. Tập quán quốc tế được sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực của đời sống, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại và đầu tư. Trong lĩnh vực bảo hộ đầu tư, mỗi quốc gia sẽ có các biện pháp và cơ chế bảo hộ đầu tư riêng biệt.

Điều 9.6 Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) quy định: “Mỗi Bên sẽ dành cho khoản đầu tư theo hiệp định này sự đối xử phù hợp với các nguyên tắc áp dụng của luật tập quán quốc tế, bao gồm đối xử công bằng và thoả đáng, và bảo hộ an toàn và đầy đủ”. Để làm rõ phạm vi của “luật tập quán quốc tế”, Phụ lục 9-A đã quy định: “Các Bên xác nhận cách hiểu chung rằng “luật tập quán quốc tế” nói chung …. được hình thành từ thực tiễn chung và nhất quán mà các Quốc gia tuân theo dựa trên nghĩa vụ pháp lý. Tiêu chuẩn đối xử tối thiểu của luật tập quán quốc tế đối với người nước ngoài dẫn chiếu đến tất cả nguyên tắc luật tập quán quốc tế bảo vệ đầu tư của người nước ngoài”

1.2.3. Án lệ

Án lệ hay những bản án, quyết định xét xử của Tòa án quốc tế (judicial decisions) được xác định là một phương tiện bổ trợ nguồn của luật quốc tế hay đầy đủ hơn là “những phương tiện bổ trợ để xác định các quy tắc pháp luật” (subsidiary means for the determination of rules of law). Thuật ngữ “án lệ” được đề cập đến tại điều 38 Quy chế Tòa án quốc tế.

Mặc dù không có giá trị pháp lý như hai loại nguồn cơ bản của luật quốc tế là điều ước quốc tế và tập quán quốc tế, án lệ đóng một vai trò hết sức quan trọng và có giá trị thực tiễn cao trong khoa học pháp lý nói chung và pháp luật về đầu tư quốc tế nói riêng. Theo trang Investment Policy Hub[21], hiện có 740 án lệ đã được chấp thuận về tranh chấp và bảo hộ đầu tư trên thế giới.

Trong lĩnh vực bảo hộ đầu tư, án lệ cơ sở thực tế có tính thuyết phục cao nhằm xác định các tiêu chuẩn pháp lý chung, đặc biệt khi có sự không thống nhất về một vấn đề nào đó của luật đầu tư quốc tế. Trên cơ sở khẳng định sự đúng đắn và hợp lý, các án lệ có vai trò là cơ sở vật chất (material sources) làm nền tảng xây dựng các quy phạm mới của luật đầu tư quốc tế, bao gồm cả các khía cạnh về bảo hộ đầu tư. Ví dụ, kết luận từ các bản án trước đó về tranh chấp đầu tư là nền tảng để các cơ quan lập pháp đưa ra các điều khoản và các biện pháp bảo hộ đầu tư trong các hiệp định.

1.3. VAI TRÒ CỦA BẢO HỘ ĐẦU TƯ

1.3.1. Đối với Nhà đầu tư

Có thể khẳng định rằng bảo hộ đầu tư là nền tảng, cơ sở để các nhà đầu tư lựa chọn hình thức, lĩnh vực, địa bàn đầu tư. Với những biện pháp nhằm bảo hộ đầu tư có lợi cho nhà đầu tư, việc đầu tư vào một dự án sẽ luôn an toàn, thuận lợi và tiết kiệm hơn nhiều so với việc đầu tư vào một dự án không được đảm bảo đầu tư hoặc được đảm bảo ít. Nhà nước đã tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước, đảm bảo những vấn đề cần thiết về pháp lý để các nhà đầu tư có thể thực hiện dự án một cách yên tâm. Các biện pháp này được xây dựng trên tiêu chí: đơn giản, minh bạch trong các quy định và cách thức áp dụng chúng trong thực tế; tính công bằng so với các nhà đầu tư khác và tính hiệu quả đối với việc giảm bớt chi phí về tài chính và thời gian của các nhà đầu tư. Từ đó quyền lợi của các nhà đầu tư được bảo vệ một cách tối đa và nhất quán.

Các hoạt động đầu tư mang lại nhiều lợi nhuận nhưng cũng mang lại nhiều rủi ro. Bởi vậy, các nhà đầu tư luôn mong muốn có một điểm tựa an toàn cho vốn và tài sản của mình trước khi quyết định thực hiện đầu tư có quy mô và chất lượng đảm bảo. Các biện pháp bảo hộ đầu tư chính là một lời cam kết giúp các nhà đầu tư yên tâm thực hiện dự án đầu tư của mình. Đồng thời, những biện pháp này còn xây dựng niềm tin cho các nhà đầu tư và tạo ra một một cơ chế thủ tục hành chính thông thoáng, giúp cho các dự án đầu tư diễn ra minh bạch, hiệu quả, công bằng.

1.3.2. Đối với nước nhận đầu tư

Đặc trưng của hoạt động đầu tư là khả năng rủi ro rất lớn, chính vì vậy, việc bảo hộ đầu tư có vai trò rất lớn trong hoạt động thu hút đầu tư của nước tiếp nhận đầu tư. Cụ thể:

Thứ nhất, việc bảo hộ đầu tư góp phần không nhỏ tạo ra môi trường đầu tư bình ổn. Môi trường đầu tư bình ổn sẽ là “lời mời gọi đầy hấp dẫn” với các nhà đầu tư, bởi nhà đầu tư có thể yên tâm đầu tư trong một môi trường đầu tư không có sự xáo trộn, ít nhất là các vấn đề cơ bản liên quan đến những lợi ích trực tiếp của nhà đầu tư.

Thứ hai, việc áp dụng các biện pháp bảo hộ đầu tư cũng thể hiện được thái độ đầy thiện chí, cũng như những nỗ lực của nước tiếp nhận đầu tư trong việc mời gọi các nhà đầu tư tham gia đầu tư và tìm kiếm lợi nhuận. Việc bảo hộ đầu tư sẽ tạo được niềm tin cũng như mang lại cảm giác an toàn cho các nhà đầu tư, bởi mỗi một nhà đầu tư đều mong muốn có một môi trường đầu tư thuận lợi với những bảo đảm an toàn cho vốn tài sản của mình trước khi quyết định thực hiện đầu tư.

Thứ ba, thực hiện hiệu quả các biện pháp bảo hộ đầu tư sẽ góp phần tăng thu hút đầu tư cả về số lượng và chất lượng. Nhìn nhận các biện pháp bảo hộ đầu tư trong tương quan so sánh với môi trường đầu tư có thể nhận thấy rằng hệ thống các biện pháp bảo hộ đầu tư tốt chính là những yếu tố giúp nước tiếp nhận đầu tư có môi trường đầu tư tốt, được đánh giá thông qua khả năng thu hút vốn đầu tư mạnh mẽ ngày càng được nâng cao. Môi trường đầu tư thông thoáng và phát triển sẽ giúp cho các hoạt động đầu tư diễn ra minh bạch, hiệu quả, công bằng.

Như vậy, có thể khẳng định các quy định về bảo hộ đầu tư là một trong những nội dung quan trọng và không thể thiếu được ghi nhận trong hệ thống pháp luật đầu tư của mỗi quốc gia. Việc bảo hộ đầu tư góp phần tăng thu hút vốn đầu, phản ánh được thái độ của nước tiếp nhận đầu tư đối với các nhà đầu tư và hoạt động đầu tư của họ. Đồng thời nhắm vào mục đích cao hơn đó là thúc đẩy sự phát triển chung vào nền kinh tế xã hội của nước tiếp nhận đầu tư.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH VỀ BẢO HỘ ĐẦU TƯ THEO HIỆP ĐỊNH BẢO HỘ ĐẦU TƯ VIỆT NAM – LIÊN MINH CHẤU ÂU (EVIPA)

2.1. KHÁI QUÁT VỀ HIỆP ĐỊNH BẢO HỘ ĐẦU TƯ VIỆT NAM-LIÊN MINH CHÂU ÂU (EVIPA)

Hiệp định EVIPA được Hội đồng châu Âu thông qua ngày 25/6/2019 và được đại diện các bên ký ngày 30/6/2019 tại Hà Nội. Ngày 12/2/2020, Nghị viện châu Âu đã phê chuẩn EVIPA cùng với việc phê chuẩn Hiệp định EVFTA[1]. Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam cũng đã trình Quốc hội phê chuẩn EVIPA tại Kỳ họp thứ 9, khẳng định quyết tâm chính trị của Nhà nước ta trong việc sớm triển khai các cam kết trong EVIPA, đánh dấu bước phát triển quan trọng trong quan hệ giữa Việt Nam với EU. Hiệp định này ra đời đã thay thế 21 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư mà Việt Nam đã ký với 22/28 nước thành viên EU.

EVIPA bao gồm các điều khoản bảo hộ và cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư giống như một hiệp định bảo hộ đầu tư (IPA) song phương giữa một thành viên EU và một quốc gia ngoại khối trước đây và phải có đầy đủ sự phê chuẩn của cả EU lẫn Quốc hội của các nước thành viên. EVIPA có 4 chương, 92 điều và 13 phụ lục, gồm những nội dung chủ yếu sau: Quy định về mục tiêu và các khái niệm sử dụng trong hiệp định; phạm vi điều chỉnh của hiệp định và cam kết của mỗi bên về bảo hộ đầu tư đối với nhà đầu tư đã có hoạt động đầu tư hợp pháp trên lãnh thổ của bên kia; về cơ chế giải quyết tranh chấp trong quá trình thực thi hiệp định; cơ chế tổ chức thực thi hiệp định.

Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Hiệp định EVIPA có các cam kết nhằm đảm bảo an toàn cho vốn và tài sản của nhà đầu tư như đối xử công bằng và thỏa đáng, bảo hộ an toàn đầy đủ cho nhà đầu tư nước ngoài. Hiệp định EVIPA cam kết không trưng thu quốc hữu hóa trái pháp luật tài sản của nhà đầu tư và bồi thường thỏa đáng trong trường hợp trưng thu, quốc hữu hóa; Cam kết bồi thường cho nhà đầu tư trong trường hợp tài sản của nhà đầu tư bị phá hoại do việc dùng vũ lực không cần thiết trong trường hợp chiến tranh; Cam kết cho phép nhà đầu tư tự do chuyển vốn và lợi nhuận ra nước ngoài.

Những cam kết này trong EVIPA được xây dựng chi tiết và cân bằng hơn các hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương mà Việt Nam đã ký với các quốc gia thành viên EU, có tiêu chí rõ ràng đối với từng hành vi mà nhà nước không được làm, bổ sung một số ngoại lệ nhằm bảo đảm quyền điều chỉnh chính sách của quốc gia chủ nhà.

2.2. CÁC CAM KẾT BẢO ĐẢM TỰ DO HÓA ĐẦU TƯ

2.2.1. Cam kết về nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MFN)

2.2.1.1 Khái quát về nguyên tắc MFN

Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc có nguồn gốc sâu xa từ các hiệp định thương mại, từ thời kỳ của những Hiệp ước Hữu nghị, Thương mại và Hàng hải. Trong IIA, có thể hiểu MFN là nước tiếp nhận đầu tư phải dành cho các nhà đầu tư của một nước khác sự đối xử ngang bằng với sự đối xử dành cho các nhà đầu tư đến từ một nước thứ ba trong các trường hợp tương tự. Mục đích của nguyên tắc này là ngăn chặn sự phân biệt đối xử giữa các đối tác thương mại, tạo ra một sân chơi bình đẳng cho tất cả các đối tác nước ngoài. Về đầu tư, nó nhằm tạo ra những điều kiện cạnh tranh bình đẳng cho tất cả các nhà đầu tư nước ngoài, không kể quốc gia xuất xứ của họ.

Nguyên tắc MFN hình thành nên những cột mốc quan trọng trong các IIA và cho phép các nhà đầu tư được điều chỉnh bởi một hiệp định cụ thể, và có quyền yêu cầu được hưởng những lợi ích bình đẳng so với những lợi ích mà những nhà đầu tư từ các nước khác được hưởng, bất kể là những lợi ích đó được mang lại từ các IIA khác hay không, hay do việc thực hiện các quy định pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư.

Phạm vi nghĩa vụ MFN, cũng giống như bất kỳ điều khoản quan trọng nào của IIA, bị giới hạn không chỉ bởi phạm vi chung của IIA, mà còn bởi cách diễn đạt của chính điều khoản đó.

Nguyên tắc MFN, cũng như các nguyên tắc không phân biệt đối xử, là một tiêu chuẩn mang tính tương đối. Việc diễn đạt chính xác về nghĩa vụ MFN là hết sức quan trọng, bởi vì nó đặt ra tiêu chuẩn về sự so sánh giữa các nhà đầu tư nước ngoài đó. Nói một cách khác, việc soạn thảo điều khoản MFN sẽ xác định nhà đầu tư nào sẽ được so sánh, để đánh giá liệu một nhà đầu tư có được đối xử ưu tiên hơn so với người khác không. Các IIA đã sử dụng các tiêu chuẩn so sánh khác nhau.

2.2.1.2. Nội dung của nguyên tắc MFN trong EVIPA
  • Nội dung nguyên tắc

Trong EVIPA, nguyên tắc đối xử tối huệ quốc được quy định tại điều 2.4 Chương 2 Bảo hộ đầu tư .Theo đó, mỗi Bên sẽ dành cho các nhà đầu tư của Bên kia và khoản đầu tư được bảo hộ, liên quan đến hoạt động của các khoản đầu tư được bảo hộ, sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử mà Bên đó dành cho nhà đầu tư của một nước thứ ba và các khoản đầu tư của nhà đầu tư của nước thứ ba đó trong hoàn cảnh tương tự, tức là trong hoàn cảnh họ là các nhà đầu tư cạnh tranh nhau trong cùng một ngành kinh tế, lĩnh vực kinh doanh.

Bản chất của nguyên tắc này là không phân biệt đối xử giữa những nhà đầu tư nước ngoài với nhau, không thù địch hay thiện chí, không coi nhà đầu tư nước ngoài nào hơn nhà đầu tư nước ngoài nào. EVIPA quy định về nghĩa vụ đối xử tối huệ quốc đảm bảo nhà đầu tư của một bên ký kết và khoản đầu tư của họ được đối xử không kém thuận lợi hơn nhà đầu tư của bên không tham gia hiệp định và khoản đầu tư của họ. Sự đối xử không kém thuận lợi hơn là sự đối xử mà ít nhất là ngang bằng với nhà đầu tư của một nước thứ ba.

Nguyên tắc MFN không được hiểu là bắt buộc một Bên dành cho nhà đầu tư của Bên kia hoặc khoản đầu tư được bảo hộ của nhà đầu tư đó lợi ích từ bất kỳ sự đối xử nào được cam kết tại các hiệp định song phương, khu vực hoặc đa phương đã có hiệu lực trước ngày Hiệp định này có hiệu lực

Nguyên tắc MFN không buộc một Bên dành cho nhà đầu tư của Bên kia hoặc khoản đầu tư được bảo hộ của các nhà đầu tư đó lợi ích từ:

Thứ nhất, bất kỳ sự đối xử nào theo cam kết tại các hiệp định song phương, khu vực hoặc đa phương mà bao gồm cam kết xóa bỏ đáng kể tất cả các rào cản đối với đầu từ giữa các bên hoặc yêu cầu sự tương đương của pháp luật của các bên trong một hoặc nhiều ngành kinh tế;

Thứ hai, bất kỳ sự đối xử từ các hiệp định quốc tế về tránh đánh thuế hai lần hoặc các hiệp định quốc tế khác hoặc các thỏa thuận liên quan toàn bộ hoặc một phần đến thuế; hoặc

Thứ ba, bất kỳ sự đối xử từ các biện pháp nhằm công nhận các trình độ chuyên môn, giấy phép hoặc các biện pháp thận trọng phù hợp với Điều VII của GATS hoặc các Phụ lục về Dịch vụ tài chính thuộc GATS.

Cam kết không phân biệt đối xử trong điều khoản MFN áp dụng cả khi đầu tư đang được thiết lập và sau khi thiết lập, bắt đầu hoạt động ở nước nhận đầu tư. Tuy nhiên, nhà đầu tư chỉ có thể sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của Chương về đầu tư đối với tranh chấp phát sinh từ nghĩa vụ MFN trong giai đoạn đầu tư đã đi vào hoạt động.

Nhà đầu tư không được sử dụng điều khoản MFN để bỏ qua cơ chế giải quyết tranh chấp của EVFTA và sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp thuận lợi hơn trong các hiệp định khác. Trong một số vụ kiện, nhà đầu tư đã được hội đồng trọng tài cho phép sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp ở hiệp định khác nhưng những vụ khác thì bị từ chối.

Điều khoản MFN đảm bảo sự đối xử không kém thuận lợi hơn trong các quy định của pháp luật cũng như trong thực tiễn cho nhà đầu tư thuộc phạm vi áp dụng của EVIPA. Tuy nhiên, theo khoản 6 Điều 2.4, những biện pháp thực thi các nghĩa vụ bảo hộ đầu tư trong hiệp định khác có thể được xét có cấu thành sự đối xử kém thuận lợi. Bản thân các điều khoản trong hiệp định khác không tạo thành sự đối xử để so sánh.

  • Ngoại lệ của nguyên tắc MFN

Về ngoại lệ, EVIPA quy định các điều khoản về nguyên tắc MFN trong hiệp định này sẽ không áp dụng đối với các ngành sau: dịch vụ nghe nhìn; khai khoáng, sản xuất và chế biến các vật liệu hạt nhân;  sản xuất hoặc buôn bán vũ khí, đạn dược và vật liệu chiến tranh; vận tải đường biển nội địa; dịch vụ vận tải hàng không quốc tế và nội địa, kể cả định kỳ hay không định kỳ, và các dịch vụ liên quan trực tiếp đến thương quyền bay, ngoại trừ: dịch vụ bảo trì và bảo dưỡng máy bay khi máy bay không hoạt động; bán và tiếp thị dịch vụ vận tải hàng không; các dịch vụ đặt, giữ chỗ qua máy tính (CRS); các dịch vụ khai thác mặt đất; và dịch vụ vận hành sân bay; và các dịch vụ được cung cấp và các hoạt động được thực hiện trong quá trình thực thi quyền lực nhà nước. Theo điều 2.4 của EVIPA, nguyên tắc MFN sẽ không áp dụng đối với các ngành cụ thể sau: dịch vụ truyền thông, ngoại trừ dịch vụ bưu chính và dịch vụ viễn thông; dịch vụ giải trí, văn hóa và thể thao; thủy sản và nuôi trồng thủy sản; lâm nghiệp và săn bắn; và khai khoáng, bao gồm dầu và khí.

Trong trường hợp một Bên thông qua hoặc thực thi bất kỳ biện pháp nào mà: cần thiết để bảo vệ an ninh công cộng hoặc đạo đức xã hội hoặc để duy trì trật tự công cộng; cần thiết để bảo vệ cuộc sống hoặc sức khỏe của con người, động vật hoặc thực vật; liên quan đến việc bảo tồn các nguồn tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt nếu các biện pháp đó được áp dụng cùng với những hạn chế đối với nhà đầu tư trong nước hoặc các nguồn cung ứng và tiêu dùng trong nước; cần thiết để bảo vệ bảo vệ quốc gia có giá trị nghệ thuật, lịch sử hoặc khảo cổ học;… thì nguyên tắc MFN sẽ không được sử dụng nhằm ngăn cản việc thực thi các biện pháp đó.

2.2.2. Cam kết về nguyên tắc đối xử quốc gia (NT)

2.2.2.1. Khái quát về nguyên tắc đối xử quốc gia (NT)

Đối xử quốc gia (NT) là nguyên tắc quan trọng có mục tiêu ngăn ngừa sự phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư. Trong khi nguyên tắc MFN hướng tới việc tạo ra một sân chơi bình đẳng cho tất cả các nhà đầu tư nước ngoài, thì nguyên tắc NT lại nhằm loại bỏ sự phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Có thể hiểu NT tức là nước tiếp nhận đầu tư dành cho nhà đầu tư nước ngoài sự đối xử thuận lợi ít nhất là ngang bằng sự đối xử dành cho nhà đầu tư nước mình trong hoàn cảnh tương tự. Hiện nay, một số quốc gia để thu hút đầu tư nước ngoài thậm chí còn đối xử ưu đãi hơn cho nhà đầu tư nước ngoài. Cũng như nguyên tắc MFN, NT là một chuẩn mực đòi hỏi phải so sánh. Do đó, việc xác định tiêu chí so sánh giữa các nhà đầu tư cũng có liên quan trong ngữ cảnh NT. Điều này ngày càng đúng hơn vì các IIA thường sử dụng cùng ngôn ngữ cho cả hai nguyên tắc nêu trên.

2.2.2.2. Nội dung của nguyên tắc NT trong EVIPA
  • Nội dung:

EVIPA thỏa thuận về nguyên tắc NT như sau: “Mỗi Bên sẽ dành cho các nhà đầu tư của Bên kia và khoản đầu tư được bảo hộ, liên quan đến hoạt động của các khoản đầu tư được bảo hộ, sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử mà Bên đó dành cho nhà đầu tư của mình và các khoản đầu tư của mình trong hoàn cảnh tương tự”[22]

Như vậy, nguyên tắc NT quy định nhà đầu tư của một bên ký kết và khoản đầu tư của họ được đối xử không kém thuận lợi hơn nhà đầu tư của bên ký kết nhận đầu tư và khoản đầu tư của họ, sự không kém thuận lợi hơn ở đây tức là sự đối xử ít nhất phải ngang bằng với nhà đầu tư của bên nhận ký kết. Bên cạnh đó, khoản đầu tư chỉ được bảo hộ khi khoản đầu tư đó hợp pháp, tuân thủ quy định pháp luật được áp dụng, nếu khoản đầu tư vi phạm pháp luật thì nó sẽ không được bảo hộ.

Cam kết không phân biệt đối xử trong nghĩa vụ NT áp dụng cả khi đầu tư đang được thiết lập và khi đầu tư đã được thiết lập, đang hoạt động ở nước nhận đầu tư. Tuy nhiên, nhà đầu tư chỉ có thể sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của Chương về đầu tư đối với tranh chấp liên quan tới nghĩa vụ NT trong giai đoạn đầu tư đi vào hoạt động.

Trong trường hợp biện pháp của nước nhận đầu tư có tác động phân biệt đối xử, tạo ra sự đối xử kém thuận lợi cho nhà đầu tư, khoản đầu tư được bảo hộ trong EVFTA, dù cố ý hay không, có thể cấu thành vi phạm nghĩa vụ NT, trừ khi thuộc các trường hợp ngoại lệ.

Căn cứ theo điều 2.3 Chương 2 Hiệp định EVIPA, một bên có thể thông qua hoặc duy trì bất kỳ biện pháp nào liên quan đến hoạt động của một khoản đầu tư được bảo hộ với điều kiện biện pháp đó không trái với các cam kết tương ứng nêu tại Phụ lục 8-A (Biểu cam kết cụ thể của Liên minh Châu Âu) hoặc 8-B (Biểu cam kết cụ thể của Việt Nam) của Hiệp định Tự do Thương mại. Biện pháp ở đây có thể là: một biện pháp được ban hành vào hoặc trước ngày có hiệu lực của Hiệp định này; một biện pháp được ban hành vào hoặc trước ngày có hiệu lực của Hiệp định này được tiếp tục thực hiện, thay thế hoặc sửa đổi sau ngày có hiệu lực của Hiệp định này, với điều kiện biện pháp đó không kém phù hợp hơn với nguyên tắc đối xử quốc gia sau khi biện pháp đó được tiếp tục thực hiện, thay thể hoặc sửa đổi so với biện pháp đã tồn tại trước khi tiếp tục thực hiện, thay thế hoặc sửa đổi; hoặc một biện pháp khác hai biện pháp trên với với điều kiện biện pháp đó không được áp dụng đối với hoặc theo cách gây ra thiệt hại cho khoản đầu tư trên lãnh thổ của Bên đó trước ngày có hiệu lực của biện pháp đó.

  • Ngoại lệ nguyên tắc NT  

Căn cứ theo điều 2.3 cùng với các phụ lục của EVIPA, nước nhận đầu tư có quyền áp dụng các biện pháp phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư của một bên ký kết và khoản đầu tư của họ với nhà đầu tư trong nước và khoản đầu tư của họ trong một số lĩnh vực, ngành kinh tế; một số vấn đề như trợ cấp, dịch vụ hành chính tư pháp… Biện pháp này phải thỏa mãn điều kiện về thời gian (được thông qua trước hoặc vào lúc EVFTA có hiệu lực) và điều kiện về tính chất (không gây thiệt hại cho đầu tư của bên ký kết khác). Việc xác định biện pháp có gây thiệt hại không sẽ tính tới những yếu tố như nước nhận đầu tư đã có quy định một thời hạn hợp lý để thực thi và nỗ lực giải quyết tác động của biện pháp này.

Theo phụ lục 2 Ngoại lệ của Việt Nam về đối xử quốc gia, trong các lĩnh vực, ngành hoặc hoạt động sau, Việt Nam có thể thông qua và duy trì mọi biện pháp liên quan đến hoạt động của khoản đầu tư được bảo hộ không phù hợp với Điều 2.3 (Đối xử quốc gia), miễn là biện pháp đó phù hợp với cam kết nêu tại Phụ lục 8-B (Biểu cam kết cụ thể của Việt Nam) trong Hiệp định Thương mại Tự do: báo chí và cơ quan thông tấn, in ấn, xuất bản, phát thanh và truyền hình, dưới mọi hình thức; sản xuất và phân phối sản phẩm văn hóa, bao gồm băng ghi hình; sản xuất, phân phối, và trình chiếu chương trình truyền hình và tác phẩm điện ảnh;nghiên cứu và an ninh; trắc địa và bản đồ; dịch vụ giáo dục trung học và tiểu học; thăm dò, tìm kiếm và khai thác dầu khí, khoáng sản và tài nguyên thiên nhiên;  thủy điện và năng lượng hạt nhân; truyền tải và/hoặc phân phối điện;  dịch vụ vận tải nội địa do tổ chức nước ngoài thực hiện;  thủy sản và nuôi trồng thủy sản;  lâm nghiệp và săn bắn;  xổ số, đặt cược và đánh bạc;  dịch vụ hành chính tư pháp, bao gồm nhưng không giới hạn những dịch vụ liên quan đến quốc tịch;  thực thi dân sự;  sản xuất vật liệu hoặc thiết bị quân sự; hoạt động và quản lý cảng sông, cảng biển và cảng hàng không; và trợ cấp

Tuy nhiên nếu Việt Nam thông qua hoặc duy trì một biện pháp sau ngày có hiệu lực của Hiệp định này, Việt Nam không được yêu cầu một nhà đầu tư của Liên minh Châu Âu, vì lý do quốc tịch, bán lại hoặc loại bỏ một khoản đầu tư hiện có khi biện pháp đó bắt đầu có hiệu lực.

2.2.3. Cam kết về nguyên tắc đối xử công bằng và thỏa đáng (FET)

2.2.3.1. Khái quát nguyên tắc đối xử công bằng và thỏa đáng (FET)

Đa số các hiệp định có quy định khuyến khích và bảo hộ đầu tư yêu cầu bên nhận đầu tư phải dành cho đầu tư thuộc phạm vi điều chỉnh của hiệp định đó sự đối xử công bằng, thỏa đáng nhưng không xác định rõ thế nào là công bằng, thỏa đáng. Vì thế, trong nhiều vụ kiện, khái niệm về nguyên tắc FET đã được giải thích có nhiều nội dung khác nhau, có những giải nghĩa mâu thuẫn lẫn nhau. Tuy nhiên, nguyên tắc đối xử công bằng và thỏa đáng có thể hiểu như sau: Nguyên tắc FET là những hành vi của nước tiếp nhận đầu tư đối với các nhà đầu tư nước ngoài phải dựa trên các quy tắc không thiên vị. Nhằm tạo ra sự đối xử công bằng với tất cả các bên có lợi ích liên quan mà có thể bị ảnh hưởng bởi quyết định của Chính phủ nước tiếp nhận đầu tư.

Mục đích chính của nguyên tắc FET là nhằm bảo vệ nhà đầu tư khỏi những hành vi có bản chất không công bằng. Chẳng hạn như sự hủy bỏ giấy phép hay khoản đầu tư một cách tùy tiện; gây phiền hà cho các nhà đầu tư thông qua các hình phạt vô lý; hoặc tạo ra những cản trở khác trong quá trình đầu tư. Thông qua đó, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư hoạt động một cách hiệu quả, tiết kiệm cả chi phí và thời gian. Nguyên tắc đối xử công bằng và thỏa đáng thường được sử dụng như là một nguyên tắc dự phòng và linh hoạt để bảo hộ nhà đầu tư nước ngoài trong trường hợp khó chứng minh theo các nguyên tắc bảo hộ đầu tư khác.

Việc nước nhận đầu tư phá bỏ những cam kết cụ thể với nhà đầu tư mà đã đưa ra để thúc đẩy họ tiến hành đầu tư, tạo ra sự mong đợi chính đáng của nhà đầu tư về những cam kết đó, sẽ được xem xét để xác định cách đối xử có rơi vào các trường hợp nói trên hay không. Nếu cách đối xử với đầu tư không rơi vào các trường hợp trên thì bên nhận đầu tư coi như tuân thủ cam kết về nguyên tắc đối xử công bằng và thỏa đáng (FET). Các bên ký kết EVIPA có thể nhất trí bổ sung những hành vi cấu thành vi phạm FET theo thủ tục sửa đổi của Hiệp định này.

2.2.3.3. Nội dung nguyên tắc FET trong EVIPA

Nguyên tắc đối xử công bằng và thỏa đáng trong Hiệp định EVIPA được quy định chi tiết tại Chương 2 về Bảo hộ đầu tư, Điều 2.5 về Đối xử đầu tư. Một Bên sẽ bị coi là vi phạm nghĩa vụ đối xử công bằng và bình đẳng nếu một biện pháp hoặc một loạt các biện pháp cấu thành những hành vi sau đây:

  • Cấu thành sự từ chối xét xử tố tụng hình sự, dân sự hoặc hành chính; vi phạm cơ bản quy trình tố tụng tư pháp và hành chính công bằng:Nội dung này yêu cầu các quốc gia thành viên tham gia vào Hiệp định EVIPA không được từ chối cho Nhà đầu tư nước ngoài hưởng công lý trong bất kỳ tố tụng pháp lý hay hành chính nào phù hợp với thủ tục pháp luật bao gồm các xét xử tố tụng hình sự, dân sự hoặc hành chính, vi phạm quy trình tố tụng tư pháp và hành chính công bằng
  • Cấu thành biểu hiện sự tùy ý: Bên cạnh đó, các quốc gia thành viên cũng không được đối xử tùy tiện với các nhà đầu tư dù họ có mang quốc tịch có bất kỳ quốc gia thành viên nào. Không chỉ đối xử với các nhà đầu tư một cách công bằng và thỏa đáng, nội dung này của nguyên tắc còn nêu cụ thể hơn cách đối xử của các quốc gia đối với nhà đầu từ nước ngoài là không được tùy tiện. Việc đối xử tôn trọng và hữu nghị giữa các bên tạo cơ sở vững chắc cho quá trình giao kết trên mọi lĩnh vực chứ không chỉ có đầu tư
  • Cấu thành sự phân biệt đối xử có mục đích có căn cứ sai rõ ràng, như giới tính, dân tộc hoặc niềm tin tôn giáo: Việc phân biệt đối xử có mục đích có căn rõ ràng, như giới tính, dân tộc hoặc niềm tin tôn giáo sẽ bị coi là hành vi đối xử không công bằng và thỏa đáng. Sự khác biệt trong giới tính, văn hóa dân tộc hoặc tôn giáo là không thể tránh khỏi giữa các quốc gia với nhau nhưng không thể vì rào cản này mà có sự đối xử khác nhau giữa các nhà đầu tư nước ngoài.
  • Cấu thành sự đối xử khắc nghiệt như ép buộc, lạm quyền hoặc hành vi xấu tương tự: Không được tiến hành các biện pháp có ý đồ không tốt đối với Nhà đầu tư; và không được ép buộc đe dọa nhà đầu tư dưới mọi hình thức. Bao gồm: việc sử dụng công cụ pháp luật sai mục đích; cố ý gây thiệt hại hay làm cho khoản đầu tư bị thất bại; thiên vị công ty trong nước và loại bỏ khoản đầu tư nước ngoài…Ngoài ra, phải tôn trọng kỳ vọng chính đáng của nhà đầu tư. Kỳ vọng được coi là chính đáng có thể xuất phát từ những cam kết cụ thể rõ ràng; hay được suy ra mà nước tiếp nhận đầu tư dành cho nhà đầu tư trong các nghị định, giấy phép hay hợp đồng. Nhà đầu tư đã dựa trên quyền lợi hợp pháp đó để tiến hành đầu tư thì quốc gia tiếp nhận đầu tư phải có nghĩa vụ tôn trọng.
  • Những hình thức đối xử không liệt kê ở trên có thể cấu thành vi phạm đối xử công bằng và bình đẳng nếu các Bên thỏa thuận như vậy là vi phạm phù hợp với thủ tục quy định tại Điều 4.3 (Sửa đổi): Theo quy định tại Điểm (f) và Khoản 3 Điều này thì giữa các bên còn có thể thỏa thuận khác về hình thức đối xử được coi là cấu thành vi phạm đối xử công bằng và bình đẳng tùy theo hoàn cảnh, tình hình cụ thể của từng Bên. Quy định này mở rộng phạm vi xem xét hình thức đối xử giữa các bên với nhau và vừa cho phép các bên thỏa thuận hợp lí vừa tuân thủ đúng pháp luật nhưng vẫn tối đa hóa khả năng bảo vệ quyền cũng như lợi ích của mình.

2.2.4. Cam kết về nguyên tắc bảo hộ an toàn và đầy đủ cho nhà đầu tư (FPS)

2.2.4.1. Khái quát về nguyên tắc bảo hộ và an ninh đầy đủ cho nhà đầu tư (FPS)

Thuật ngữ bảo vệ và an ninh đầy đủ được bắt nguồn từ mối quan tâm về vấn đề bảo vệ tài sản và mong muốn được đối xử công bằng của người nước ngoài. Cụ thể hơn đó là mối lo ngại về vấn đề bảo vệ sử dụng bạo lực và đối xử không công bằng của lực lượng cảnh sát địa phương của nước sở tại đối với người nước ngoài.

Giống với FET, khái niệm về FPS không được định nghĩa một cách cụ thể trong Hiệp định nên dẫn tới có nhiều cách giải thích và hiểu khác nhau. Tuy nhiên ở đây, nguyên tắc bảo hộ và an ninh đầy đủ được hiểu là việc các nước thành viên tham gia vào Hiệp định EVIPA phải dành cho đầu tư của nhà đầu tư từ một thành viên khác thuộc phạm vi bảo hộ sự bảo hộ và an ninh một cách toàn diện bao gồm bảo hộ đầy đủ về vật chất, bảo đảm an toàn khỏi bạo lực vật chất và đảm bảo đủ các tiêu chuẩn về trách nhiệm. Quốc gia nước chủ nhà có nghĩa vụ đảm bảo rằng việc sửa đổi luật pháp của mình cũng như các hành  động của bộ máy lãnh đạo sẽ không làm chấm dứt hay huỷ bỏ quyền  được bảo hộ và an ninh đầy đủ của các nhà đầu tư nước ngoài. Tiêu chuẩn bảo hộ và an ninh đầy đủ bao gồm bảo vệ chống lại các hành vi xâm phạm vật lý và pháp lý của Nhà nước chủ nhà hướng vào các nhà đầu tư nước ngoài. Vì thế, nguyên tắc bảo vệ và an ninh đầy đủ quy định việc xử phạt các hành vi và thiếu sót của một quốc gia sở tại không áp dụng các biện pháp hợp lý và sự siêng năng để ngăn chặn các hành vi xâm phạm thân thể hoặc pháp lý của các nhà đầu tư nước ngoài.

2.2.4.2. Nội dung về nguyên tắc FPS trong EVIPA

Nguyên tắc bảo hộ và an ninh đầy đủ cho nhà đầu tư trong Hiệp định EVIPA được quy định tại Điều 2.5 về Đối xử đầu tư, cụ thể là từ khoản 5 đến khoản 7 như sau:

– Nhằm giải thích rõ hơn, thuật ngữ “bảo hộ và an ninh đầy đủ” được hiểu là nghĩa vụ phải thực hiện của một Bên cần thiết để bảo vệ an toàn của nhà đầu tư và khoản đầu tư được bảo hộ. Khái niệm về nguyên tắc bảo hộ và an ninh đầy đủ (FPS) không được quy định một cách rõ ràng và thống nhất tuy nhiên trong Hiệp định EVIPA nguyên tắc trên có thể được hiểu ngắn gọn và đơn giản như Khoản 5 đã quy định. Khái niệm này trở thành nền tảng để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên khi tuân theo Nguyên tắc FPS.

– Nếu một Bên ký kết một văn bản thỏa thuận với nhà đầu tư của Bên kia hoặc khoản đầu tư được bảo hộ đáp ứng tất cả điều kiện sau, Bên đó không được vi phạm thỏa thuận này thông qua việc thực hiện chức năng nhà nước. Các điều kiện bao gồm:

(a) văn bản thỏa thuận được ký kết và có hiệu lực sau ngày có hiệu lực của Hiệp định này;

(b) nhà đầu tư dựa vào văn bản thỏa thuận để quyết định hoặc duy trì khoản đầu tư được bảo hộ thay vì chính văn bản thỏa thuận đó và vi phạm gây ra thiệt hại thực tế đến khoản đầu tư đó;

(c) văn bản thỏa thuận tạo ra sẽ trao đổi quyền và nghĩa vụ liên quan đến khoản đầu tư nói trên, có giá trị ràng buộc các bên; và

(d) văn bản thỏa thuận không có điều khoản về giải quyết tranh chấp giữa các bên bằng hình thức trọng tài quốc tế.”

Các điều kiện nêu trên xác định một văn bản thỏa thuận được ký kết sẽ có hiệu lực như thế nào, các bên sẽ có quyền và nghĩa vụ ra sao,… Dựa vào việc tuân thủ các điều kiện đã nêu ra, các bên sẽ không thể lợi dụng hoặc nhờ vào việc nhà nước thực hiện chức năng để vi phạm nguyên tắc bảo hộ và an ninh đầy đủ cho một hoặc các bên còn lại. Các điều kiện này cũng giúp ràng buộc các bên không chỉ với lợi ích nhận được mà còn cả nghĩa vụ đi kèm. Đồng thời, góp phần củng cố việc thực hiện, tuân thủ nguyên tắc FPS được chính xác và hợp lý hơn

– Một vi phạm điều khoản khác của Hiệp định này hoặc của hiệp định quốc tế khác không cấu thành vi phạm Điều này.

Việc bảo hộ và an ninh đầy đủ cho các nhà đầu tư nước ngoài của nước sở tại không chỉ giảm thiểu thiệt hại cho các nhà đầu tư mà là cả nước sở tại. Việc hội nhập đưa tới nhiều cơ hội cho các nước đang phát triển nhận được nhiều sự đầu tư, hỗ trợ từ các quốc gia khác để làm động lực xây dựng, phát triển đất nước. Các quy định trong Hiệp định bảo hộ đầu tư EVIPA giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EU) mở ra một con đường hợp tác bền vững. Nguyên tắc bảo hộ và an ninh đầy đủ cần thiết cho quá trình bảo vệ các nhà đầu tư nước ngoài tại nước sở tại. Nguyên tắc FPS ràng buộc các bên về nghĩa vụ và cả lợi ích có được thông qua Hiệp định EVIPA. Tuy nhiên, đây không chỉ là một nguyên tắc mà các nước đều phải tuân theo, bên cạnh đó, nó cũng là một cam kết uy tín về sự bảo hộ cũng như đối xử công bằng cho các nhà đầu tư từ đó thu hút thêm nhiều đầu tư, cải thiện và phát triển các lĩnh vực đời sống, xã hội. Khi có vi phạm xảy ra, các bên tham gia kí kết Hiệp định thường hướng tới giải quyết bằng hòa giải và thỏa thuận đồng thời tiếp tục duy trì, thực hiện nguyên tắc bảo hộ và an ninh đầy đủ một cách chặt chẽ và nghiêm khắc hơn. Nguyên tắc này giúp hạn chế và loại bỏ bớt những tác động tiêu cực cả về mặt khách quan lẫn chủ quan từ nước tiếp nhận đầu tư tới các nhà đầu tư, góp phần tạo nên môi trường đầu tư lành mạnh hơn.

2.3. CÁC CAM KẾT NHẰM BẢO HỘ ĐẦU TƯ

2.3.1. Cam kết về bảo đảm cho nhà đầu tư nước ngoài không bị tước đoạt quyền sở hữu một cách bất hợp pháp

Tước quyền sở hữu – còn được gọi là tước đoạt quyền sở hữu, truất quyền, trưng thu, trưng dụng hay quốc hữu hóa [23]– thường được hiểu là việc chính phủ tước đi hoặc thay đổi quyền tài sản của một cá nhân[24]. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với tài sản của một chủ thể với mục đích nhằm chuyển giao quyền sở hữu đối với tài sản đó cho một chủ thể khác,thường sự tước đoạt tài sản này phải được thực hiện nhằm phục vụ mục đích công (public purpose) và cho phép bên bị tước đoạt tài sản nhận một khoản bồi thường [từ nhà nước] sau đó.

Tước quyền sở hữu là đe dọa lớn nhất đối với đầu tư nước ngoài, vì thế nhà đầu tư nước ngoài thường nhìn vào quy định về tước quyền sở hữu để đánh giá mức độ rủi ro của địa chỉ đầu tư. Điều khoản về tước quyền sở hữu do đó được coi là “linh hồn” của các hiệp định đầu tư song phương (Bilateral Investment Treaty – hay còn gọi là BIT) và ảnh hưởng rất lớn đến tính hấp dẫn của quốc gia tiếp nhận đầu tư bởi nó ảnh hưởng đến những lựa chọn đầu tư của nhà đầu tư. Bên cạnh đó, điều khoản về tước quyền sở hữu cũng quyết định phạm vi điều chỉnh của nhà nước tiếp nhận đầu tư. Các quy định này thể hiện quyền can thiệp của nhà nước vào các hoạt động đầu tư để thiết kế và thực hiện các chính sách phát triển.

Theo điều 1, phụ lục 4: Bản ghi nhớ về trưng dụng, trưng dụng hay tước đoạt quyền sở hữu có thể xảy ra trực tiếp khi nhà nước tước quyền sở hữu và/hoặc thu giữ [trực tiếp] toàn bộ tài sản của nhà đầu tư nước ngoài bằng quyết định hoặc chính sách cụ thể. Đặc điểm của hình thức trực tiếp là sự tước đoạt dựa trên quy định pháp luật hoặc hành chính dẫn tới sự chuyển giao quyền sở hữu và chiếm hữu vật lý (physical possession) (đối với tài sản). Trường hợp tước đoạt trực tiếp có thể so sánh tương đương với quốc hữu hoá tài sản của nhà đầu tư.

Tuy nhiên, tước đoạt quyền sở hữu cũng bao gồm cả trường hợp nhà nước sử dụng một số biện pháp, mặc dù không trực tiếp tước quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, nhưng lại gián tiếp triệt tiêu các giá trị kinh tế của quyền tài sản hoặc loại trừ quyền kiểm soát tài sản của nhà đầu tư, làm cho nhà đầu tư bị rơi vào tình trạng như bị tước quyền sở hữu. Hình thức truất hữu thứ hai này là “tước đoạt gián tiếp”.

Tước đoạt gián tiếp cũng có thể liên quan tới trường hợp cơ quan chức năng của quốc gia sở tại ra quyết định tước các quyền phụ cận (auxiliary rights) liên quan chặt chẽ đến các quyền sở hữu và quyền tài sản của nhà đầu tư, chẳng hạn như các quyền đối với sáng chế. Việc buộc công ty nước ngoài phải cho phép nhà nước hoặc doanh nghiệp được nhà nước bảo trợ nắm giữ các cổ phần chi phối của công ty cũng được coi là một hình thức truất hữu gián tiếp vì quốc gia đã tước quyền kiểm soát đối với tài sản và lợi nhuận của doanh nghiệp liên quan. Thậm chí việc nhà nước buộc công ty nước ngoài phải bổ nhiệm người quản lý do mình chỉ định cũng là một hình thức truất hữu gián tiếp vì điều này dẫn tới việc nhà đầu tư nước ngoài bị tước đi quyền định đoạt tài sản đầu tư. Nhìn chung, phạm vi nội hàm của tước đoạt gián tiếp rất rộng, phức tạp và cũng thường là vấn đề tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và quốc gia tiếp nhận đầu tư. Theo điều 2, phụ lục trên, việc xác định có trưng dụng gián tiếp hay không cần đòi hỏi cuộc điều tra tùy từng tình huống cụ thể và dựa vào tình tiết thực tế, ví dụ:

(a) tác động kinh tế của biện pháp hoặc một loạt biện pháp, mặc dù riêng tác động bất lợi

của chúng lên giá trị kinh tế của dự án đầu tư không đủ cơ sở để áp dụng biện pháp trưng dụng;

(b) thời hạn của biện pháp hoặc một loạt biện pháp hoặc thời hạn tác động của chúng; và

(c) đặc điểm của biện pháp hoặc một loạt biện pháp, đặc biệt là đối tượng, bối cảnh và ý định của chúng.

Để bảo vệ đầy đủ quyền lợi của các nhà đầu tư, các BIT ngày nay thường đi theo xu hướng ngăn chặn không chỉ hành vi tước quyền sở hữu trực tiếp, mà cả tước quyền sở hữu gián tiếp. Việc ngăn chặn này có thể được thực hiện bằng hai cách. Cách thứ nhất là định nghĩa rất rộng khái niệm tước quyền sở hữu để bao trùm hành vi tước quyền sở hữu gián tiếp. Cách thứ hai là cấm hành vi can thiệp đến một trong các quyền hưởng dụng, thu lợi, định đoạt của nhà đầu tư đối với tài sản đầu tư. [25]

Hiệp định EVIPA dành riêng một điều khoản quy định về tước đoạt quyền sở hữu, hay còn gọi là trưng dụng tại điều 2.7, trong đó, có những nội dung đáng chú ý, như sau:

  • Thứ nhất, một bên không được quốc hữu hóa hoặc trưng dụng các khoản đầu tư được bảo hộ của các nhà đầu tư của bên kia trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các biện pháp tương đương với quốc hữu hóa hoặc trưng dụng, trừ trường hợp vì mục đích công cộng, được thực hiện thông qua quy trình hợp pháp, dựa trên cơ sở không phân biệt đối xử, và được bồi thường nhanh chóng, đầy đủ và hiệu quả.

Thông thường nhà nước tiếp nhận đầu tư là chủ thể tuyên bố hành vi tước quyền sở hữu có nhằm mục đích công cộng hay không, và nhà đầu tư cũng như quốc gia “xuất khẩu” vốn không chống đối tuyên bố đó. Để ngăn ngừa hành vi tước quyền sở hữu nhằm mục đích trả đũa giữa các quốc gia, luật tập quán và các điều ước quốc tế thường không coi tước quyền sở hữu để trả đũa là tước quyền sở hữu vì mục đích công cộng. Để được coi là tước quyền sở hữu vì mục đích công cộng, việc tước quyền sở hữu phải được thực hiện vì nhu cầu trong nước.

Tiêu chí tước quyền sở hữu “không phân biệt đối xử” có tầm quan trọng rất lớn. Việc tước quyền sở hữu “phân biệt đối xử” sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ đến khoản bồi thường mà quốc gia tiếp nhận phải trả, ví dụ có thể kéo theo việc quốc gia này bị phạt hoặc phải thi hành nghĩa vụ khôi phục tình trạng ban đầu

  • Thứ hai, Việc cấp li-xăng cưỡng bức liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ không tạo thành hành vi trưng dụng trong phạm vi điều 1, miễn là việc cấp li-xăng phù hợp với Hiệp định các khía cạnh liên quan thương mại của quyền sở hữu trí tuệ trong Phụ lục 1C của Hiệp định WTO
  • Thứ ba, khoản bồi thường theo quy định nêu trên phải bằng giá trị thực của khoản đầu tư được bảo hộ ngay trước khi bị trưng dụng hoặc trước khi nguy cơ bị trưng dụng trở nên công khai; tùy vào từng trường hợp cụ thể mà các khoản bồi thường này có thể bao gồm lãi suất của khoản tiền chậm bồi thường. (khoản 1, điều 2.7, EVIPA)
  • Thứ tư, trường hợp Việt Nam là bên trưng dụng, bất kỳ biện pháp trưng dụng trực tiếp nào liên quan đến đất đai cần phải đảm bảo yêu cầu vì mục đích phù hợp với pháp luật Việt Nam hiện hành và thanh toán tiền bồi thường tương đương với giá thị trường. (khoản 3, điều 2.7, EVIPA)
  • Thứ năm, nếu nhà đầu tư bị ảnh hưởng bởi việc trưng dụng mà không đồng ý với việc trưng dụng hay số tiền bồi thường thì có quyền yêu cầu cơ quan chức năng có thẩm quyền của Việt Nam hoặc cơ quan độc lập khác xem xét lại vấn đề mà mình chưa đồng ý nhằm đảm bảo được quyền và lợi ích chính đáng của mình. (khoản 4, điều 2,7 EVIPA)

Vấn đề về bồi thường khoản bị trưng dụng được nhấn mạnh bởi nó tạo nên sự minh bạch và công bằng đối với khoản đầu tư. Mỗi hiệp định thương mại quốc tế đưa ra những phương pháp bồi thường khác nhau, thể hiện tương quan sức mạnh giữa các quốc gia đàm phán.

Như vậy, với Hiệp định EVIPA, Việt Nam đã cam kết bảo hộ với khoản đầu tư của nhà đầu tư châu Âu và ngược lại, đây là cơ sở pháp lý vững chắc để các nhà đầu tư châu Âu an tâm đầu tư vào Việt Nam, không phải lo lắng bị quốc hữu hóa, trong đó có đầu tư về bất động sản, trong trường hợp cần thiết mà thu hồi đất của nhà đầu tư thì Chính phủ Việt Nam phải bồi thường tiền cho nhà đầu tư tương đương với giá thị trường chứ không phải giá theo bảng giá đất hiện hành. Bên cạnh đó, hiệp định cũng đảm bảo quyền yêu cầu cơ quan tư pháp hoặc cơ quan độc lập khác xem xét khiếu nại và định giá khoản đầu tư thể hiện sự đối xử công bằng đối với các nhà đầu tư nước ngoài, cụ thể là các nhà đầu tư châu Âu. Điều này, góp phần bảo vệ tài sản chính đáng cho nhà đầu tư và mở ra nguồn vốn lớn từ châu Âu vào thị trường bất động sản nước nhà.

2.3.2. Cam kết về bảo đảm cho nhà đầu tư nước ngoài chuyển tiền ra nước ngoài

Chuyển lợi nhuận thu được từ đầu tư kinh doanh tại Việt Nam ra nước ngoài là vấn đề được luôn dành được sự quan tâm lớn của nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư tại Việt Nam. Một trong những biện pháp bảo đảm đầu tư mà Nhà nước cam kết khi nhà đầu tư nước ngoài thuộc EU thực hiện đầu tư tại Việt Nam đó là bảo đảm chuyển tài sản của nhà đầu tư nước ngoài ra nước ngoài được quy định rõ trong EVIPA. “Lợi nhuận nhà đầu tư nước ngoài chuyển từ Việt Nam ra nước ngoài là lợi nhuận hợp pháp được chia hoặc thu được từ các hoạt động đầu tư trực tiếp tại Việt Nam theo Luật Đầu tư, sau khi thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước Việt Nam theo quy định.

Tại điều 2.8, EVIPA, chuyển tiền được nhắc đến như một cơ chế bảo hộ hoạt động luận chuyển vốn của nhà đầu tư nước ngoài, trong đó khẳng định: “Mỗi Bên phải cho phép việc chuyển tiền liên quan đến khoản đầu tư được bảo hộ bằng bất kỳ đồng tiền tự do chuyển đổi nào, mà không có hạn chế hay sự chậm trễ nào và với tỷ giá thị trường hối đoái vào thời điểm chuyển đổi”. Như vậy, việc chuyển tiền ra nước ngoài của nhà đầu tư nước ngoài là quyền của nhà đầu tư và được đảm bảo thực hiện. Việc chuyển tiền sẽ đáp ứng mọi khía cạnh về sự công bằng và minh bạch, nhà đầu tư có quyền lựa chọn đồng tiền chuyển đổi, việc chuyển đổi sẽ được đảm bảo đúng thời hạn, tỷ giá hối đoái khi chuyển tiền tính theo thời điểm chuyển

Trong đó, các khoản tiền được chuyển bao gồm:

(a) góp vốn, ví dụ vốn ban đầu hoặc vốn góp thêm để duy trì, phát triển hoặc tăng khoản đầu tư;

(b) lợi nhuận, cổ tức, thu nhập từ vốn hoặc các nguồn thu khác từ việc bán toàn bộ hay một phần khoản đầu tư hoặc từ việc thanh khoản một phần hay toàn bộ khoản đầu tư;

(c) các khoản thanh toán tiền lãi, tiền bản quyền, phí quản lý, và hỗ trợ kỹ thuật và các khoản phí khác;

(d) các khoản thanh toán theo một hợp đồng do nhà đầu tư ký kết hoặc khoản đầu tư được bảo hộ, bao gồm các khoản thanh toán thỏa thuận vay;

(e) thu nhập và khoản thù lao khác của nhân sự làm việc ở nước ngoài và có liên quan đến khoản đầu tư;

Đây là những khoản lợi nhuận có được từ chính hoạt động đầu tư trực tiếp của nhà đầu tư.

(f) các khoản thanh toán căn cứ vào Điều 2.6 (Bồi thường thiệt hại) và Điều 2.7 (Trưng dụng); và

(g) các khoản thanh toán thiệt hại căn cứ vào phán quyết theo Mục B (Giải quyết Tranh chấp giữa Nhà đầu tư và các Bên) của Chương 3 (Giải quyết tranh chấp).”

Đây là khoản tiền có được khi nhà đầu tư được bồi thường đối với các thiệt hại hoặc tranh chấp giữa nước tiếp nhận đầu tư (Việt Nam) với nhà đầu tư nước ngoài (EU). Khoản tiền này sau khi được xác định và thanh toán sẽ hoàn toàn thuộc về quyền kiểm soát của nhà đầu tư nước ngoài và được coi là một khoản hợp pháp khi chuyển tiền.

Điều khoản đã đảm bảo hoạt động chuyển tiền buộc hai bên đảm bảo an toàn cho tài sản và vốn của nhà đầu tư đối tác. Thông qua cam kết đối xử công bằng, thỏa đáng, tự do chuyển vốn và lợi nhuận từ đầu tư ra nước ngoài, Việt Nam trở thành một môi trường kinh doanh màu mỡ, có sự thông thoáng về mặt pháp luật, khiến hoạt động huy động và luân chuyển vốn của nhà đầu tư nước ngoài được thực hiện nhanh chóng, với thủ tục gọn nhẹ, minh bạch.

2.3.3. Cam kết về bồi thường trong trường hợp xung đột vũ trang

Trước hết, xung đột vũ trang được quan niệm giống như một cuộc chiến tranh bình thường –  một cuộc chiến tranh kéo dài giữa những đơn vị vũ trang thông thường của một quốc gia hoặc các quốc gia chủ quyền nhằm ép buộc đối thủ khuất phục. Xung đột vũ trang sẽ dẫn đến những tổn hại về mặt tài sản, của cải vật chất và tinh thần của mọi chủ thể trên lãnh thổ quốc gia, trong đó có cả các Nhà đầu tư nước ngoài đang thực hiện dự án đầu tư tại lãnh thổ quốc gia. Xung đột vũ tranh sẽ có nguy cơ phá hủy những tài sản của Nhà đầu tư nước ngoài hoặc gây trì hoãn đối với các dự án đầu tư, ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình thu lợi nhuận của Nhà đầu tư. Vì vậy, Nhà đầu tư nước ngoài phải chịu thiệt hại do tình trạng xung đột vũ trang của nước tiếp nhận đầu tư sẽ có quyền được nhận khoản bồi thường trên cơ sở không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư nước ngoài và giữa nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước. Nguyên tắc này cũng có ý nghĩa tương tự như nguyên tắc bảo hộ an toàn và đầy đủ (FPS) cho Nhà đầu tư nước ngoài.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 2.6 Hiệp định EVIPA, các khoản đầu tư được bảo hộ của nhà đầu tư nước ngoài bị thiệt hại do chiến tranh hoặc xung đột vũ trang, cách mạng, tình trạng khẩn cấp quốc gia, nổi loạn, khởi nghĩa hoặc bạo loạn trên lãnh thổ của quốc gia tiếp nhận đầu tư thì sẽ được quốc gia tiếp nhận đầu tư áp dụng sự đối xử có liên quan đến việc hoàn trả, đền bù, bồi thường hoặc giải pháp khác không kém thuận lợi hơn sự đối xử mà quốc gia đó dành cho các nhà đầu tư của mình hay của bất kỳ nước thứ ba nào. Nhìn chung, nghĩa vụ bồi thường của quốc gia trong trường hợp xảy ra xung đột vũ trang là nghĩa vụ về mặt tài chính và có điểm tương đồng với nghĩa vụ bồi thường của quốc gia trong trường hợp quốc hữu hóa tài sản của Nhà đầu tư nước ngoài. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại trong hai trường hợp này được quy định tại khoản 2 Điều 2.6 Hiệp định EVIPA như sau:

“Không ảnh hưởng đến khoản 1, nhà đầu tư của một Bên trong bất cứ trường hợp nào được nêu tại khoản 1 bị thiệt hại trên lãnh thổ của Bên kia phải được Bên kia hoàn trả hoặc bồi thường đầy đủ và hiệu quả nếu những thiệt hại này là do:

(a) các lực lượng hoặc cơ quan có thẩm quyền của Bên kia trưng thu khoản đầu tư được bảo hộ; hoặc

(b) các lực lượng hoặc cơ quan có thẩm quyền của Bên kia phá huỷ khoản đầu tư được bảo hộ mà không phải là do hành động chiến đấu hoặc không phải là do tính thiết yếu của tình hình”

Do đó, các khoản bồi thường trong trường hợp xung đột vũ trang và trường hợp trưng thu tài sản phải được Chính phủ nước tiếp nhận đầu tư hoàn trả hoặc bồi thường một cách đầy đủ và hiệu quả. Mặc dù Hiệp định chưa quy định cụ thể thế nào là “đầy đủ và hiệu quả” nhưng có thể hiểu “đầy đủ và hiệu quả” ở đây là việc quốc gia tiếp nhận đầu tư phải hoàn trả và bồi thường toàn bộ những tổn thất mà Nhà đầu tư phải gánh chịu trong trường hợp xảy ra xung đột vũ trang một cách nhanh chóng. Tuy nhiên, trong các trường hợp khoản đầu tư của Nhà đầu tư bị thiệt hại bởi hành vi chiến đấu hoặc do tính thiết yếu của tình hình bắt buộc phải gây thiệt hại cho khoản đầu tư thì Nhà đầu tư nước ngoài sẽ không được bồi thường. Điều này đã chỉ ra một ngoại lệ trong trường hợp xảy ra xung đột vũ trang tại nước tiếp nhận đầu tư

2.3.4. Cam kết về thế quyền

Quy định về thế quyền được quy định tại điều 2.9 Hiệp định EVIPA. Theo đó, nếu một quốc gia thành viên hoặc một cơ quan của một quốc gia thành viên (quốc gia mà Nhà đầu tư mang quốc tịch) đã thanh toán cho Nhà đầu tư của nước mình một khoản đền bù, bảo lãnh hoặc hợp đồng bảo hiểm ký kết liên quan đến một khoản đầu tư của nhà đầu tư trên lãnh thổ của quốc gia tiếp nhận đầu tư thì quốc gia tiếp nhận đầu tư phải công nhận thế quyền hoặc chuyển toàn bộ các quyền khiếu nại liên quan đến khoản đầu tư. Quốc gia mà Nhà đầu tư mang quốc tịch hoặc cơ quan của quốc gia đó có quyền thực hiện thế quyền hoặc quyền chuyển nhượng hoặc khiếu nại với cùng nội dung với quyền hoặc khiếu nại gốc của nhà đầu tư. Trong trường hợp quốc gia mà Nhà đầu tư mang quốc tịch hoặc một cơ quan của quốc gia đó thanh toán cho Nhà đầu tư của nước mình và đã nhận chuyển giao các quyền và yêu cầu từ Nhà đầu tư thì Nhà đầu tư không được tiếp tục theo đuổi những quyền và yêu cầu đối với quốc gia tiếp nhận đầu tư, trừ trường hợp được quốc gia Nhà đầu tư mang quốc tịch hoặc Cơ quan có thẩm quyền của quốc gia đó ủy quyền thực hiện thanh toán hoặc theo đuổi các quyền hay yêu cầu đối với quốc gia tiếp nhận đầu tư

Do đó, biệp pháp thế quyền được ghi nhận trong EVIPA sẽ giúp giảm thiểu những thiệt hại cho Nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư tại Quốc gia tiếp nhận đầu tư. Bên cạnh đó, biện pháp thế quyền cũng tạo ra cơ hội cho quốc gia tiếp nhận đầu tư thu hồi, bù đắp lại những tổn thất do Nhà đầu tư nước ngoài gây ra khi thực hiện dự án đầu tư

2.3.5. Cam kết về bảo đảm cơ chế giải quyết tranh chấp giữa Nhà đầu tư với quốc gia tiếp nhận đầu tư

2.3.5.1. Phạm vi giải quyết tranh chấp
  • Đối tượng tranh chấp:

Đối tượng tranh chấp ở Hiệp định này là các biện pháp được cho là cấu thành vi phạm các điều khoản tại Chương 2 (Bảo hộ đầu tư) và được cho là gây thiệt hại cho Nguyên đơn hoặc gây thiệt hại cho công ty thành lập trong nước nếu đơn khiếu kiện được nộp thay cho doanh nghiệp thành lập trong nước do nguyên đơn sở hữu hoặc quản lý. Đó có thể là những mâu thuẫn hay bất đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quan hệ đầu tư quốc tế, phát sinh từ các Hiệp định bảo hộ đầu tư (EVIPA) hoặc hợp đồng, thoả thuận đầu tư.

  • Chủ thể tranh chấp: Các bên tranh chấp được căn cứ theo quy định tại Điều 3.28 Hiệp định EVIPA.

– Chủ đầu tư của một bên, nhân danh chính mình hoặc chủ đầu tư của một Bên nêu tại điểm 1(b) của Điều 2.1 (Phạm vi), thay mặt doanh nghiệp thành lập trong nước do chủ đầu tư sở hữu hoặc quản lý, sau đây gọi là Nguyên đơn

– Việt Nam đối với Liên minh Châu Âu hoặc là Liên minh hoặc nước thành viên của Liên minh căn cứ vào Điều 3.32 (Thông báo ý định Trình khiếu kiện), sau đây gọi là Bị đơn

  • Thời điểm phát sinh tranh chấp:

Khi một bên nhận thấy có những điểm bất hợp lý hoặc vi phạm đến những điều khoản đã được thống nhất trong Hiệp định EVIPA, được cho là gây thiệt hại hoặc ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của của bên mình trên lãnh thổ của bên còn lại.

 2.3.5.2. Cơ chế giải quyết tranh chấp của EVIPA

Trong quá trình đầu tư, việc tranh chấp xảy ra giữa chính phủ và nhà đầu tư là khó tránh khỏi, do đó, để các tranh chấp này được giải quyết hiệu quả thì cần phải có những phương thức giải quyết phù hợp. Chính vì vậy, EVIPA đã quy định ba phương thức giải quyết tranh chấp giữa chính phủ và nhà đầu tư: hòa giải, trọng tài và tòa án.

2.3.5.2.1. Tham vấn, hòa giải

Giải quyết tranh chấp bằng phương thức hòa giải là một trong những nội dung của EVIPA. Theo đó, Hiệp định này cũng khuyến khích các bên lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp thân thiện là tham vấn, hòa giải.

Tự hòa giảiHiệp định này khuyến khích các bên tiến hành tự hòa giải, thương lượng theo nguyện vọng của đôi bên trước khi đệ trình yêu cầu tham vấn theo Điều 3.30 (Tham vấn) trong hiệp định này nếu được. Việc giải quyết tranh chấp có thể được thỏa thuận bất kỳ lúc nào, kể cả sau khi bắt đầu quá trình tố tụng

– Tham vấn:Nếu tranh chấp không thể được giải quyết qua thương lượng hòa giải, nguyên đơn của một Bên cáo buộc vi phạm quy định nêu tại khoản 1 Điều 3.27 (Phạm vi) phải gửi yêu cầu tham vấn tới Bên kia.

Hòa giải:Các bên tranh chấp có thể bất cứ lúc nào thỏa thuận giải quyết tranh chấp thông qua hòa giải. Ngoài ra, yêu cầu hòa giải là tự nguyện và không ảnh hưởng đến tư cách pháp lý của một trong hai bên tranh chấp. Hòa giải viên do các bên thỏa thuận chỉ định. Việc chỉ định này có thể bao gồm chỉ định hòa giải viên trong số các thành viên ở cấp Sơ thẩm được chỉ định căn cứ vào Điều 3.38 (Cấp Sơ thẩm) hoặc các thành viên ở cấp Phúc thẩm được chỉ định căn cứ vào Điều 3.39 (Cấp Phúc thẩm). Các bên tranh chấp có thể yêu cầu Chủ tịch hội đồng cấp Sơ thẩm chỉ định hòa giải viên trong số các thành viên ở cấp Sơ thẩm không phải là công dân của một nước thành viên Liên minh hay của Việt Nam. Thêm vào đó, khi các bên tranh chấp thỏa thuận yêu cầu hòa giải, những thời hạn nêu tại các khoản 2 và 5 Điều 3.30 (Tham vấn), khoản 6 của Điều 3.53 (Phán quyết sơ bộ) và khoản 5 của Điều 3.54 (Thủ tục phúc thẩm) sẽ tạm ngừng từ ngày các bên thỏa thuận yêu cầu hòa giải đến ngày một trong hai bên quyết định chấm dứt hòa giải, bằng cách gửi thư đến hòa giải viên và bên tranh chấp còn lại. Theo yêu cầu của cả hai bên tranh chấp, nếu một Hội đồng cấp Sơ thẩm đã được thành lập căn cứ theo Điều 3.38 (Cấp Sơ thẩm), ban này phải tiếp tục giải quyết thủ tục cho đến khi một trong hai tranh chấp quyết định chấm dứt hòa giải bằng cách gửi thư cho hòa giải viên và bên tranh chấp còn lại

Nếu các bên xảy ra xung đột không thể giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp nêu trên thì sẽ có quyền khởi kiện ra tòa án hoặc trọng tài.

2.3.5.2.2. Giải quyết tranh chấp tại Tòa đầu tư

Giải quyết tranh chấp đầu tư bằng Tòa Đầu tư là một phương thức giải quyết tranh chấp mới đang được nhiều quốc gia ủng hộ nhằm thay thế phương thức giải quyết bằng trọng tài vụ việc, vốn thường quy định tại các hiệp định bảo hộ đầu tư trước đây. Hiệp định EVIPA đánh dấu lần đầu tiên Việt Nam quy định phương thức giải quyết tranh chấp này trong một hiệp định bảo hộ đầu tư của Việt Nam.

Hệ thống Tòa Đầu Tư tại EVIPA bao gồm tòa sơ thẩm và tòa phúc thẩm. Theo đó, tranh chấp sẽ được giải quyết tại tòa sơ thẩm, nếu có kháng cáo với nghị quyết của Tòa sơ thẩm sẽ được xem xét tại Tòa phúc thẩm.

 Tòa sơ thẩm có 9 thành viên, trong đó ba thành viên là công dân EU, ba thành viên là công dân Việt Nam và ba thành viên là công dân của các nước thứ ba khác. Tòa phúc thẩm có sáu thành viên, gồm hai thành viên là công dân EU, hai thành viên là công dân Việt Nam và hai thành viên là công dân của các nước thứ ba khác. Các thành viên của cả hai cấp tòa sẽ do ủy ban (được thành lập theo EVIPA, gồm các đại diện của EU và Việt Nam để quản lý việc thực hiện EVIPA) bổ nhiệm với nhiệm kỳ bốn năm và có thể tái bổ nhiệm một lần.

Mỗi tranh chấp đầu tư khi đưa đến Tòa Đầu Tư sẽ được một hội đồng xét xử của tòa sơ thẩm giải quyết và nếu có kháng cáo, kháng cáo sẽ do một hội đồng xét xử của tòa phúc thẩm giải quyết. Mỗi hội đồng xét xử (ở cả hai cấp) sẽ gồm ba thành viên và cấu thành từ các thành viên của cấp tòa tương ứng, trong đó một thành viên là công dân các nước thành viên EU, một thành viên là công dân Việt Nam và một thành viên là công dân của nước thứ ba. Thành viên là công dân của nước thứ ba sẽ làm chủ tọa hội đồng. Một ngoại lệ là đối với cấp sơ thẩm, các bên tranh chấp có thể thỏa thuận để giải quyết bằng hội đồng chỉ gồm duy nhất một thành viên là công dân nước thứ ba. Chủ tịch của cấp tòa tương ứng là những người có thẩm quyền chỉ định thành viên trong hội đồng xét xử. Việc chỉ định được thực hiện trên cơ sở ngẫu nhiên, không thể đoán trước và đảm bảo cơ hội tham gia xét xử ngang bằng cho các thành viên trong tòa.

– Trình tự khởi kiện:

Để bắt đầu quá trình khởi kiện tại Tòa Đầu tư, EVIPA quy định nhà đầu tư trước hết phải gửi yêu cầu tham vấn đến bên còn lại. Yêu cầu tham vấn phải được gửi trong vòng ba năm kể từ ngày nhà đầu tư biết hoặc phải biết về hành vi vi phạm và thiệt hại đã xảy ra; hoặc trong vòng hai năm kể từ ngày nhà đầu tư dừng việc khởi kiện tại các hội đồng/tòa án theo pháp luật quốc gia nhưng không quá bảy năm kể từ ngày nhà đầu tư biết hoặc phải biết về hành vi vi phạm và thiệt hại đã xảy ra.

Nếu tranh chấp không được giải quyết trong vòng 90 ngày kể từ ngày gửi yêu cầu tham vấn, nhà đầu tư có quyền gửi thông báo về ý định khởi kiện đến bên kia. Chỉ khi tranh chấp vẫn không được giải quyết trong vòng sáu tháng kể từ ngày gửi yêu cầu tham vấn và ít nhất ba tháng đã trôi qua kể từ ngày gửi thông báo về ý định khởi kiện, nhà đầu tư mới có quyền nộp đơn kiện đến tòa sơ thẩm. Nếu nhà đầu tư không nộp đơn kiện trong vòng 18 tháng kể từ ngày có yêu cầu tham vấn, nhà đầu tư sẽ bị xem là đã rút lại vụ kiện và không có quyền nộp đơn kiện theo cơ chế này.

Trong vòng 90 ngày kể từ ngày nộp đơn kiện, chủ tịch tòa sơ thẩm sẽ chỉ định hội đồng xét xử để giải quyết vụ kiện. hội đồng xét xử sơ thẩm sẽ ban hành phán quyết tạm thời trong vòng 18 tháng kể từ ngày nộp đơn kiện và các bên tranh chấp có quyền kháng cáo phán quyết này trong vòng 90 ngày kể từ ngày ban hành. Nếu không bị kháng cáo trong thời hạn quy định, phán quyết tạm thời sẽ trở thành phán quyết cuối cùng và chính thức có hiệu lực.

– Phán quyết của Tòa đầu tư

 Theo đó, phán quyết của Tòa Đầu tư là các biện pháp mà Tòa Đầu tư có thể tuyên có phần bị hạn chế. Cụ thể, theo quy định EVIPA, Tòa Đầu tư chỉ có thể ra phán quyết buộc quốc gia vi phạm thực hiện các việc sau: bồi thường thiệt hại và thanh toán tiền lãi; trả lại tài sản cho nhà đầu tư hoặc pháp nhân mà nhà đầu tư sở hữu hoặc kiểm soát. Tòa Đầu tư không được quyền tuyên bãi bỏ các biện pháp có liên quan của quốc gia. Điều này là nhằm đảm bảo nguyên tắc cân bằng giữa việc bảo hộ đầu tư và việc tôn trọng thẩm quyền quản lý quốc gia của các cơ quan Nhà nước, một nguyên tắc mà EVIPA xem trọng và thể hiện xuyên suốt trong tất cả các quy định của EVIPA về giải quyết tranh chấp.

Mặc dù có phần hạn chế về các biện pháp mà Tòa Đầu tư có thể tuyên, EVIPA đánh dấu mốc quan trọng khi quy định khả năng thi hành ngay lập tức các phán quyết của tòa tại quốc gia thành viên mà không cần thông qua các thủ tục công nhận và cho thi hành trong nước. Theo quy định của EVIPA, phán quyết cuối cùng của Tòa Đầu tư sẽ được mỗi bên của hiệp định thi hành như thể là bản án tòa án cuối cùng của bên đó và sẽ không bị kháng cáo, xem xét lại, hủy bỏ…Hiện Việt Nam đang bảo lưu việc áp dụng quy định này đối với các phán quyết cuối cùng mà Việt Nam là bị đơn trong vòng năm năm kể từ ngày hiệp định có hiệu lực. Do đó, trong thời hạn năm năm này, việc công nhận và thi hành các phán quyết cuối cùng của Tòa Đầu tư mà Việt Nam là bị đơn sẽ áp dụng theo Công ước New York 1958.

2.3.5.2.3. Giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài

EVIPA không có quy định riêng về tố tụng trọng tài áp dụng cho tranh chấp giữa nhà đầu tư và chính phủ, trong khi lại có quy định về tố tụng trọng tài áp dụng cho tranh chấp giữa các chính phủ ký EVIPA và về thủ tục hòa giải áp dụng cho tranh chấp giữa nhà đầu tư và chính phủ.

Đối với phương thức trọng tài áp dụng cho tranh chấp nhà đầu tư-chính phủ, EVIPA chỉ có quy định về quy tắc ứng xử của trọng tài viên tại Phụ lục 8. Về tố tụng, như nói trên, EVIPA chỉ quy định là khi có yêu cầu Tòa Đầu tư giải quyết bằng phương thức trọng tài, bên nguyên đơn có quyền yêu cầu giải quyết theo Quy tắc phụ trợ ICSID (ICSID: Trung tâm giải quyết tranh chấp về đầu tư) hoặc Quy tắc trọng tài UNCITRAL (UNCITRAL: Ủy ban Liên hợp quốc tế về Luật Thương mại quốc tế).

Ở đây, cần nhắc lại Việt Nam chưa tham gia Công ước ICSID hay Quy tắc phụ trợ ICSID mà cũng chưa công nhận Quy tắc trọng tài UNCITRAL. Với việc áp dụng và thực hiện EVIPA, nếu được Quốc hội thông qua, Việt Nam sẽ chấp nhận áp dụng và thực hiện Quy tắc phụ trợ ICSID và Quy tắc trọng tài UNCITRAL, chưa phải một cách phổ biến mà chỉ riêng đối với các cuộc tranh chấp với EU, các nước thành viên EU và các nhà đầu tư có quốc tịch các nước EU.

CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG THỰC THI VÀ ĐỀ XUẨ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THU HIỆP ĐỊNH BẢO HỘ ĐẦU TƯ VIỆT NAM-LIÊN MINH CHÂU ÂU (EVIPA) TẠI VIỆT NAM

3.1. ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG THỰC THI HIỆP ĐỊNH BẢO HỘ ĐẦU TƯ VIỆT NAM- LIÊN MINH CHÂU ÂU (EVIPA) TẠI VIỆT NAM

3.1.1. Thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo hộ đầu tư so với Hiệp định EVIPA

3.1.1.1. Các nguyên tắc bảo đảm đầu tư

Pháp luật đầu tư của Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống các nguyên tắc về bảo đảm đầu tư có tính nhất quán cao với các nguyên tắc bảo hộ đầu tư trong luật đầu tư quốc tế, các hiệp định song phương, hiệp định đa phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư, trong đó có EVIPA. Các nguyên tắc được ghi nhận đó là: nguyên tắc đối xử quốc gia, đối xử tối huệ quốc, nguyên tắc đối xử công bằng và thỏa đáng, nguyên tắc bảo hộ đầy đủ và an ninh đối với các Nhà đầu tư nước ngoài và khoản đầu tư của họ khi tiến hành hoạt động đầu tư tại Việt Nam

  • Nguyên tắc không phân biệt đối xử

Nguyên tắc không phân biệt đối xử được thể hiện ngay trong văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất tại Việt Nam là Hiến pháp. Theo Điều 33 Hiến pháp 2013, mọi người đều có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm[26]. Theo đó, “mọi người” ở đây bao gồm tất cả các cá nhân, tổ chức không phân biệt quốc tịch, màu da hay ngôn ngữ. Đây chính là cơ sở pháp lý vững chắc nhất đảm bảo quyền không bị phân biệt đối xử cho các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Cũng theo quan điểm được nêu ra trong Hiến pháp 2013, Luật Đầu tư 2014 và mới đây nhất là Luật Đầu tư 2020 đã điều chỉnh thống nhất các hoạt động đầu tư, xóa bỏ sự phân biệt về quyền và lợi ích giữa Nhà đầu tư nước ngoài và Nhà đầu tư trong nước. Theo đó, tại khoản 5 Điều 5 Luật Đầu tư 2020 quy định rằng “Nhà nước đối xử bình đẳng giữa các nhà đầu tư…”[27]. Điều luật này đã đảm bảo cho Nhà đầu tư các quyền lợi hợp pháp mà không có bất kì sự phân biệt đối xử nào dựa trên các tiêu chí như quốc tịch hay nguồn vốn mà chỉ phụ thuộc vào lĩnh vực hay địa bàn đầu tư. Các quy định về không phân biệt đối xử giữa các Nhà đầu tư còn được thể hiện qua các văn bản luật chuyên ngành như Luật Đất đai 2013 quy định về quyền của người sử dụng đất trong các giao dịch đất đai mà không có sự phân biệt giữa Nhà đầu tư trong nước với Nhà đầu tư nước ngoài[28]

Ngoài ra, các nguyên tắc không phân biệt đối xử còn xuất hiện khá phổ biến trong các hiệp định song phương và đa phương mà Việt Nam đã tham gia hoặc kí kết. Tính đến thời điểm hiện tại Chính phủ Việt Nam đã ký kết 67 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương (BITs) và 27 hiệp định với các điều khoản về đầu tư (TIPs) với các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới[29]. Trong các hiệp định về đầu tư này, hầu hết đều nhắc đến hai nguyên tắc chính đảm bảo cho các nhà đầu tư nước ngoài không bị phân biệt đối xử đó là nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MFN) và nguyên tắc đối xử quốc gia (NT). Hai nguyên tắc này cam kết rằng, trong những hoàn cảnh tương tự mỗi bên sẽ dành cho Nhà đầu tư của bên kia sự đối xử không kém thuận lợi hơn dành cho Nhà đầu tư của nước mình hoặc không kém thuận lợi hơn sự đối xử với Nhà đầu tư của bất kì nước thứ ba nào. Tuy nhiên, các quốc gia có thể đưa ra các ngoại lệ đối với các nghĩa vụ đã nêu trong các Phụ lục đính kèm với các hiệp định

  • Nguyên tắc đối xử công bằng và thỏa đáng (FET)

Pháp luật đầu tư Việt Nam chưa ghi nhận điều khoản cụ thể về nguyên tắc đối xử công bằng và thỏa đáng như trong quy định của Hiệp định EVIPA nhưng điều đó không có nghĩa Việt Nam không thừa nhận nguyên tắc này khi thực thi pháp luật về đầu tư. Nguyên tắc FET vẫn được đề cập tới lần đầu tiên tại Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 với nội dung “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo đảm đối xử công bằng và thỏa đáng đối với các Nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam”[30]. Sau quá trình sửa đổi và ban hành mới Luật Đầu tư 2020, điều luật này không còn được đề cập tới nhưng sự đối xử công bằng và thỏa đáng vẫn được ghi nhận tại các điều khoản khác của Luật. Điển hình là pháp luật Việt Nam bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, thu nhập và các quyền, lợi ích hợp pháp khác cho các nhà đầu tư không phân biệt trong nước hay nước ngoài tại khoản 4 Điều 5 và đảm bảo sự bình đẳng giữa các nhà đầu tư tại khoản 5 Điều 5. Dù chưa có điều khoản cụ thể nào trong Luật Đầu tư 2020 định nghĩa về “công bằng và thỏa đáng” nhưng tinh thần của nguyên tắc này vẫn được thể hiện rõ ràng qua các điều khoản khác và các đạo luật khác của Việt Nam. “Thực tiễn cũng cho thấy, sự đối xử không phân biệt giữa cá nhà đầu tư trong nước và nước ngoài hay giữa các nhà đầu tư nước ngoài với nhau khi thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam và việc xem xét giải quyết một cách hợp lý các yêu cầu của Nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở quy định của pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã kí kết hoặc tham gia có thể hiểu đó là sự đối xử công bằng và thỏa đáng”[31]. Từ đó có thể khẳng định, các nhà đầu tư nước ngoài vẫn sẽ nhận được sự đối xử công bằng và thỏa đáng khi đầu tư vào Việt Nam theo đúng tinh thần các cam kết của EVIPA

  • Nguyên tắc bảo hộ đầy đủ và an ninh (FPS)

Về nguyên tắc bảo hộ đầy đủ và an ninh, Việt Nam cũng không dành một điều khoản riêng trong Luật Đầu tư 2020 để giải thích về nguyên tắc này như trong quy định của Hiệp định EVIPA. Tuy vậy, nguyên tắc FPS vẫn được thể hiện khá rõ ràng thông qua một số biện pháp bảo đảm đầu tư quy định tại Chương II trong Luật Đầu tư 2020. Cụ thể, theo Điều 10 của Luật này, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ được đảm bảo sự an toàn về vốn và tài sản của mình. Vốn và tài sản của nhà đầu tư nước ngoài sẽ không bị quốc hữu hóa hay trưng mua, trưng dụng trừ trường hợp vì lý do an ninh quốc phòng mà Nhà nước buộc phải trưng mua, trưng dụng song Nhà nước sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường cho những tổn thất đó của nhà đầu tư. Bên cạnh đó, Luật Đầu tư 2020 cũng đảm bảo sự an toàn cho Nhà đầu tư nước ngoài thông qua các điều khoản giải quyết tranh chấp giữa Nhà đầu tư với Nhà nước tại Điều 14. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cam kết bồi thường thiệt hại cho Nhà đầu tư nước ngoài khi Nhà đầu tư hoặc tài sản của Nhà đầu tư bị tổn thất do những hành vi vi phạm của Nhà nước gây ra (Điều 10) và cũng đảm bảo quyền lợi cho Nhà đầu tư nước ngoài khi có sự thay đổi chính sách, pháp luật (Điều 13). Như vậy, có thể thấy rằng, mặc dù pháp luật Việt Nam không quy định FPS là một điều khoản độc lập tương ứng với nguyên tắc được nêu ra trong Hiệp định EVIPA nhưng thông qua các điều khoản về biện pháp bảo đảm đầu tư quy định tại Chương II Luật Đầu tư 2020 đã cho thấy pháp luật đầu tư Việt Nam cũng mang tinh thần của FPS giống như trong Hiệp định EVIPA

3.1.1.2. Các biện pháp bảo đảm đầu tư

Mặc dù Hiệp định EVIPA sử dụng thuật ngữ “bảo hộ đầu tư” thay vì “bảo đảm đầu tư” như trong Luật Đầu tư 2020 của Việt Nam nhưng về bản chất, hai thuật ngữ này có ý nghĩa giống nhau và đều được sử dụng với mục đích như nhau. Biện pháp bảo đảm đầu tư (hay biện pháp bảo hộ đầu tư) được hiểu là “những lời cam kết, lời hứa không cần điều kiện của Nhà nước về việc bảo đảm các quyền lợi chính đáng của nhà đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam trong suốt quá trình thực hiện hoạt động đầu tư. Những biện pháp này được quy định trong các văn bản pháp luật nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của nhà đầu tư trong quá trình thực hiện hoạt động đầu tư”[32]. Các biện pháp đảm bảo đầu tư đóng vai trò rất lớn trong việc tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh, an toàn và từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình thu hút đầu tư của Nhà đầu tư nước ngoài. Các biện pháp bảo đảm đầu tư được ghi nhận trong các văn bản như Hiến pháp đến các văn bản lật chuyên ngành, các văn bản dưới luật đã cho thấy vai trò quan trọng của các biện pháp này. Theo Luật Đầu tư 2020, vấn đề bảo đảm đầu tư được quy định riêng thành một chương (chương II – từ điều 10 đến điều 14) và bao gồm các biện pháp sau:

– Bảo đảm quyền sở hữu tài sản

– Bảo đảm hoạt động đầu tư kinh doanh

– Bảo đảm quyền chuyển tài sản của nhà đầu tư nước ngoài ra nước ngoài

– Bảo đảm đầu tư kinh doanh trong trường hợp thay đổi pháp luật

– Giải quyết tranh chấp trong hoạt động đầu tư kinh doanh.

Có thể thấy, các biện pháp bảo đảm đầu tư quy định trong pháp luật Việt Nam gần như đầy đủ so với các cam kết của EVIPA về các biện pháp bảo hộ đầu tư

  • Bảo đảm quyền sở hữu tài sản

Bảo đảm quyền sở hữu tài sản là một quy định liên quan đến bảo đảm đầu tư theo đó nhà nước thừa nhận và bảo đảm quyền sở hữu tài sản của nhà đầu tư theo pháp luật. Việc đưa ra nguyên tắc này thể hiện sự khuyến khích đầu tư, kinh doanh đối với những nhà đầu tư nước ngoài để họ có thể mạnh dạn bỏ vốn thực hiện các dự án nhằm phát triển kinh tế xã hội. Khi biện pháp bảo đảm này được thực thi, quyền sở hữu đối với tài sản đã bỏ ra hoặc tạo lập được trong quá trình kinh doanh của Nhà đầu tư sẽ được bảo đảm tối đa, không bị đe dọa hoặc xâm phạm bất hợp pháp. Bảo đảm quyền sở hữu tài sản được cụ thể hóa bằng những quy định khác nhau trong pháp luật về đầu tư ở Việt Nam.

Hiến pháp 2013 đã khẳng định rõ về quyền sở hữu tài sản hợp pháp của Nhà đầu tư nước ngoài tại khoản 1 và khoản 2 Điều 32. Theo đó, mọi nhà đầu tư đều có quyền sở hữu thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác và thừa nhận rằng quyền sở hữu tư nhân được pháp luật bảo hộ[33]. Bên cạnh đó, Hiến pháp cũng khẳng định sẽ bảo vệ quyền sở hữu tài sản của Nhà đầu tư không bị quốc hữu hóa tại khoản 3 Điều 51 trừ trường hợp cần thiết vì lý do an ninh quốc phòng hoặc vì lợi ích quốc gia,…Và sau khi tài sản của Nhà đầu tư bị quốc hữu hóa, họ cũng sẽ được nhận lại một khoản bồi thường nhanh chóng và thỏa đáng từ Nhà nước. Với quy định này, Nhà nước Việt Nam cam kết bảo đảm quyền sở hữu đối với phần tài sản mà Nhà đầu tư đang đầu tư vào Việt Nam và Nhà đầu tư hoàn toàn có quyền quyết định sử dụng và phân bổ nguồn tài sản đó theo dự định của mình để đạt được hiệu quả kinh doanh tốt nhất. Và cam kết này của Nhà nước Việt Nam một lần nữa được khẳng định lại tại Điều 10 Luật Đầu tư 2020 như sau:

“1. Tài sản hợp pháp của nhà đầu tư không bị quốc hữu hóa hoặc bị tịch thu bằng biện pháp hành chính.

2. Trường hợp Nhà nước trưng mua, trưng dụng tài sản vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai thì nhà đầu tư được thanh toán, bồi thường theo quy định của pháp luật về trưng mua, trưng dụng tài sản và quy định khác của pháp luật có liên quan”

Biện pháp bảo đảm này được áp dụng đối với tất cả các nhà đầu tư có hoạt động kinh doanh đầu tư tại Việt Nam theo quy định của pháp luật đầu tư Việt Nam mà không dựa trên bất kì tiêu chí cụ thể nào và có hiệu lực kể từ khi các nhà đầu tư bắt đầu triển khai dự án đầu tư. Biện pháp này có mục đích bảo vệ quyền sở hữu tài sản của Nhà đầu tư trước nguy cơ bị xâm phạm bất hợp pháp bởi chủ thể đặc biệt là Nhà nước. Nhà nước sẽ không được sử dụng quyền lực cưỡng chế để trưng dụng, trưng mua tài sản của Nhà đầu tư với bất kì lý do bất hợp pháp nào. Trong trường hợp buộc phải trưng thu, trưng dụng một phần hoặc toàn bộ tài sản của Nhà đầu tư nước ngoài vì lý do an ninh quốc phòng hoặc để đối phó với thiên tai, thảm họa, dịch bệnh trên diện rộng và cần ngăn chặn ngay … thì Nhà nước Việt Nam sẽ bồi thường một cách thỏa đáng cho Nhà đầu tư nước ngoài theo giá trị thị trường tại thời điểm trưng mua, trưng dụng. Việc trưng mua, trưng dụng của Nhà nước phải được thực hiện theo các quy định tại Luật Trưng mua, trưng dụng tài sản năm 2008. Những quy định về trưng mua, trưng dụng tài sản của Nhà đầu tư là phù hợp với các cam kết của Việt Nam trong các Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư nói chung và trong Hiệp định EVIPA nói riêng. Như vậy, các điều luật quy định về bảo đảm quyền sở hữu tài sản cho nhà đầu tư nước ngoài đã cho thấy tư tưởng nhất quán của Nhà nước Việt Nam trong việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho các Nhà đầu tư nước ngoài. Tư tưởng này cũng hoàn toàn phù hợp với các cam kết trong Hiệp định EVIPA mà Việt Nam đã kí kết với EU

  • Bảo đảm hoạt động đầu tư kinh doanh

Quy định về bảo đảm hoạt động đầu tư kinh doanh xuất hiện tại Điều 33 Hiến pháp 2013 như sau “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Như vậy, điều 33 trong Hiến pháp khẳng định tất cả mọi người không phân biệt giới tính, màu da, quốc tịch,… đều có quyền tự do kinh doanh theo những cơ chế mà pháp luật quy định. Điều này đồng nghĩa với việc các Nhà đầu tư nước ngoài hoàn toàn có quyền tự do kinh doanh tại Việt Nam trong những ngành nghề, lĩnh vực mà pháp luật Việt Nam không cấm. Trong Luật đầu tư 2020, quyền tự do đầu tư kinh doanh của Nhà đầu tư nước ngoài được thể hiện ở khoản 1 Điều 11:

Nhà nước không bắt buộc nhà đầu tư phải thực hiện những yêu cầu sau đây:

a) Ưu tiên mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ trong nước hoặc phải mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ từ nhà sản xuất hoặc cung ứng dịch vụ trong nước;

b) Xuất khẩu hàng hóa hoặc dịch vụ đạt một tỷ lệ nhất định; hạn chế số lượng, giá trị, loại hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu hoặc sản xuất, cung ứng trong nước;

c) Nhập khẩu hàng hóa với số lượng và giá trị tương ứng với số lượng và giá trị hàng hóa xuất khẩu hoặc phải tự cân đối ngoại tệ từ nguồn xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu;

d) Đạt được tỷ lệ nội địa hóa đối với hàng hóa sản xuất trong nước;

đ) Đạt được một mức độ hoặc giá trị nhất định trong hoạt động nghiên cứu và phát triển ở trong nước;

e) Cung cấp hàng hóa, dịch vụ tại một địa điểm cụ thể ở trong nước hoặc nước ngoài;

g) Đặt trụ sở chính tại địa điểm theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Điều luật này thể hiện sự tuân thủ triệt để các cam kết mà Việt Nam đã ký trong các Hiệp định bảo hộ đầu tư song phương và đa phương. Tuy nhiên, căn cứ vào điều kiện phát triển kinh tế – xã hội và nhu cầu thu hút đầu tư trong từng thời kỳ, Thủ tướng Chính phủ sẽ quyết định áp dụng các hình thức bảo đảm của Nhà nước để thực hiện dự án đầu tư thuộc thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ và những dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng quan trọng khác[34]. Đây được coi là ngoại lệ đối với nguyên tắc bảo đảm quyền tự do đầu tư kinh doanh của Nhà đầu tư nước ngoài. Song việc áp dụng ngoại lệ này cũng phải tuân thủ các quy định chung về việc áp dụng các ngoại lệ được quy định trong các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên

  • Bảo đảm chuyển tài sản của Nhà đầu tư nước ngoài ra nước ngoài

 Quyền được bảo đảm chuyển tài sản của Nhà đầu tư nước ngoài ra nước ngoài xuất phát từ việc Nhà nước cam kết bảo đảm quyền sở hữu tài sản cho Nhà đầu tư nước ngoài. Vì sở dĩ khi quyền sở hữu tài sản được bảo đảm thì đồng nghĩa các quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt đối với tài sản đó cũng được phải được bảo đảm. Mà bản chất hành vi chuyển tài sản ra nước ngoài của Nhà đầu tư nước ngoài là hành vi thể hiện quyền định đoạt đối với số tài sản thuộc quyền sở hữu của mình. Quy định này đã góp phần vào việc đảm bảo quyền sở hữu hợp pháp của Nhà đầu tư nước ngoài đối với tài sản của mình tại nước tiếp nhận đầu tư. Việc bảo đảm chuyển tài sản của Nhà đầu tư nước ngoài ra nước ngoài được quy định cụ thể tại Điều 12 Luật Đầu tư 2020. Theo đó, các Nhà đầu tư nước ngoài hoàn toàn có thể chuyển tài sản của mình ra nước ngoài sau khi thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước Việt Nam.Cụ thể, các tài sản mà nhà đầu tư được phép dịch chuyển đó là: Vốn đầu tư, các khoản thanh lý đầu tư; Thu nhập từ hoạt động đầu tư kinh doanh; Tiền và tài sản khác thuộc sở hữu hợp pháp của nhà đầu tư.[35]Quy định này được đánh giá là tương đối thuận tiện cho các Nhà đầu tư vì bất kì Nhà đầu tư nào cũng quan tâm đến tính khả thi và sự an toàn đối với các khoản đầu tư của mình tại nước tiếp nhận. Việc tự do dịch chuyển tài sản đầu tư ra nước ngoài cũng trở thành mối quan tâm hàng đầu đối với Nhà đầu tư. “Đây là nhu cầu tất yếu nhằm đảm bảo cho việc chu chuyển vốn vì mục đích tái đầu tư hoặc mục đích khác của Nhà đầu tư nước ngoài”[36]

Nhà đầu tư nước ngoài hoàn toàn có thể chuyển tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của mình ra nước ngoài sau khi đã hoàn tất đầy đủ các nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước Việt Nam. Nghĩa vụ tài chính ở đây cụ thể là các Nhà đầu tư nước ngoài phải chịu một khoản thuế nhất định để chuyển tài sản ra nước ngoài. Theo quy định của Luật Đầu tư 2020, tài sản này bao gồm phần vốn góp (có thể là tiền hoặc tài sản khác), các khoản thanh lý đầu tư (có thể là tiền có được từ việc bán lại cổ phần, cổ phiếu) và lợi nhuận từ hoạt động đầu tư kinh doanh. Tất cả các loại tài sản nêu trên đều sẽ bị đánh thuế khi chuyển ra nước ngoài trừ khoản lợi nhuận từ hoạt động kinh donah của Nhà đầu tư. Vì bản chất khoản lợi nhuận kinh doanh này là khoản lợi nhuận sau thuế mà trước đó Nhà đầu tư nước ngoài đã phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp cho Nhà nước Việt Nam. Nếu tiếp tục đánh thuế vào khoản lợi nhuận này khi Nhà đầu tư chuyển ra nước ngoài sẽ xảy ra hiện tượng đánh thuế hai lần cùng một đối tượng. Do đó, từ Luật Đầu tư 2005, Nhà nước Việt Nam đã bác bỏ quy định đánh thuế khoản lợi nhuận kinh doanh của Nhà đầu tư khi Nhà đầu tư chuyển ra nước ngoài. Quy định này là hoàn toàn hợp lý và phù hợp với các cam kết trong Hiệp định EVIPA về tránh đánh thuế hai lần.

Có thể thấy, pháp luật Việt Nam bảo hộ quyền chuyển tài sản của Nhà đầu tư ra nước ngoài. Mọi hành vi hạn chế quyền này đều bị coi là vi phạm pháp luật về bảo đảm đầu tư tại Việt Nam trừ một số trường hợp cần thiết Chính phủ Việt Nam có thể đặt ra một số hạn chế đối với quyền này. Nhưng nhìn chung, quyền chuyển tài sản của Nhà đầu tư nước ngoài ra nước ngoài vẫn được công nhận và thực thi tại Việt Nam. Việc bảo đảm quyền này của Nhà đầu tư trong pháp luật đầu tư của Việt Nam cũng khá tương thích với cam kết về chuyển tiền của Nhà đầu tư trong Hiệp định EVIPA. Sự tương thích này sẽ góp phần giúp cho Hiệp định EVIPA được thực thi dễ dàng hơn ở Việt Nam

  • Bảo đảm đầu tư kinh doanh trong trường hợp thay đổi pháp luật

Xã hội thay đổi từng ngày từng giờ đồng nghĩa với việc pháp luật cũng phải thau đổi để phù hợp hơn với nhu cầu của xã hội. Một quốc gia có nền chính trị bất ổn sẽ phải thường xuyên thay đổi hệ thống pháp luật, ngược lại một quốc gia có nền chính trị ổn định thì hệ thống pháp luật sẽ ít bị thay đổi. Tuy nhiên, để phù hợp với các yếu tố văn hóa, xã hội, chính trị, kinh tế cũng như xu thế hội nhập của đất nước, việc thay đổi hệ thống pháp luật là điểu khó tránh khỏi. Những thay đổi này tác động rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của Nhà đầu tư, thậm chí Nhà đầu tư phải đương đầu với nguy cơ bị thiệt hại, mất mát về tài sản do sự thay đổi đột ngột của chính sách pháp luật từ phía quốc gia tiếp nhận đầu tư. Do đó, biện pháp bảo đảm đầu tư kinh doanh trong trường hợp thay đổi pháp luật là vấn đề được đông đảo các Nhà đầu tư nước ngoài quan tâm

Biện pháp bảo đảm cho Nhà đầu tư trong trường hợp thay đổi pháp luật được quy định tại Điều 13 Luật Đầu tư 2020. Theo đó, sẽ có hai trường hợp thay đổi pháp luật xảy ra: trường hợp văn bản pháp luật mới được ban hành quy định ưu đãi đầu tư mới cao hơn ưu đãi đầu tư mà Nhà đầu tư đang được hưởng và trường hợp văn bản pháp luật mới được ban hành quy định ưu đãi đầu tư mới thấp hơn ưu đãi đầu tư mà Nhà đầu tư đang được hưởng. Dù pháp luật thay đổi theo chiều hướng nào thì pháp luật Việt Nam vẫn dành cho Nhà đầu tư nước ngoài sự đối xử có lợi nhất. Cụ thể:

– Trường hợp văn bản pháp luật mới được ban hành quy định ưu đãi đầu tư mới, ưu đãi đầu tư cao hơn thì nhà đầu tư được hưởng ưu đãi đầu tư theo quy định của văn bản pháp luật mới cho thời gian hưởng ưu đãi còn lại của dự án đầu tư, trừ ưu đãi đầu tư đặc biệt đối với dự án đầu tư thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 5 Điều 20 của Luật này.

– Trường hợp văn bản pháp luật mới được ban hành quy định ưu đãi đầu tư thấp hơn ưu đãi đầu tư mà nhà đầu tư được hưởng trước đó thì nhà đầu tư được tiếp tục áp dụng ưu đãi đầu tư theo quy định trước đó cho thời gian hưởng ưu đãi còn lại của dự án đầu tư.[37]

Tuy nhiên nếu sự thay đổi xuất phát từ lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng, bảo vệ môi trường thì Nhà đầu tư sẽ không được tiếp tục hưởng những ưu đãi theo chính sách pháp luật cũ quy định cho khoảng thời gian hưởng ưu đãi còn lại của dự án. Trong trường hợp này, Nhà đầu tư vẫn có thể được xem xét giải quyết bằng một số biện pháp thay thế khác như: Khấu trừ thiệt hại thực tế của nhà đầu tư vào thu nhập chịu thuế; Điều chỉnh mục tiêu hoạt động của dự án đầu tư; Hỗ trợ nhà đầu tư khắc phục thiệt hại[38]. Quy định này không phải quy định mới mà được tiếp tục kế thừa từ Luật Đầu tư 2014. Về thủ tục, Nhà đầu tư sẽ phải có yêu cầu bằng văn bản trong thời hạn 03 năm kể từ ngày văn bản pháp luật mới có hiệu lực thi hành. Cụ thể, Nhà đầu tư phải gửi Văn bản đề nghị cho Cơ quan đăng ký đầu tư kèm theo Giấy phép đầu tư, Giấp phép kinh doanh, Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư, Giấy chứng nhận đầu tư, Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, Văn bản quyết định chủ trương đầu tư hoặc văn bản khác của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định về ưu đãi đầu tư (nếu có) theo quy định khoản 4 Điều 13 Luật Đầu tư[39]. Sau đó, cơ quan đăng ký đầu tư sẽ xem xét và quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm ưu đãi đầu tư phù hợp theo đề xuất của Nhà đầu tư

  • Giải quyết tranh chấp trong hoạt động đầu tư kinh doanh

Một trong những vấn đề mà Nhà đầu tư nước ngoài rất quan tâm khi quyết định đầu tư vào thị trường một quốc gia đó là cơ chế giải quyết tranh chấp trong hoạt động đầu tư kinh doanh của quốc gia đó. Bởi lẽ, trong quá trình các Nhà đầu tư thực hiện dự án tại quốc gia tiếp nhận đầu tư sẽ khó tránh khỏi các xung đột, tranh chấp với các nhà đầu tư khác và thậm chí là với Nhà nước tiếp nhận đầu tư. Vì vậy, các Nhà đầu tư nước ngoài đều mong muốn có một cơ chế giải quyết tranh chấp công bằng, minh bạch để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ không bị xâm phạm.

Biện pháp bảo đảm giải quyết tranh chấp trong hoạt động đầu tư kinh doanh được quy định tại Điều 14 Luật Đầu tư 2020. Các cơ chế giải quyết tranh chấp được quy định trong Luật Đầu tư ngày càng được hoàn thiện để đảm bảo tốt nhất quyền lợi cho Nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư tại Việt Nam. Trước khi Luật Đầu tư 2005 có hiệu lực, pháp luật về đầu tư nước ngoài ở Việt Nam chỉ đảm bảo giải quyết tranh chấp giữa các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc giữa các bên liên doanh cũng như các tranh chấp giữa các doanh nghiệp có vốn dầu tư nước ngoài mà chưa có cơ chế riêng giải quyết tranh chấp giữa Nhà đầu tư nước ngoài với Nhà nước. Tuy nhiên sau khi Việt Nam tham gia Công ước Washington1965 về giải quyết tranh chấp giữa Nhà nước và Nhà đầu tư nước ngoài thì pháp luật đầu tư trong nước buộc phải điều chỉnh để phù hợp với các cam kết trong Công ước. Vì thế, từ Luật Đầu tư 2005 đến nay là Luật Đầu tư 2020 đã bổ sung thêm cơ chế giải quyết tranh chấp giữa Nhà nước và Nhà đầu tư nước ngoài (ISDS) tại khoản 4 Điều 14. Theo đó, tranh chấp liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam sẽ được giải quyết thông qua thương lượng, hòa giải. Trường hợp không thương lượng, hòa giải được thì tranh chấp được giải quyết tại Trọng tài hoặc Tòa án[40] trừ trường hợp có thỏa thuận khác theo hợp đồng hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác. Như vậy, thương lượng và hòa giải sẽ là hai biện pháp được ưu tiên áp dụng trước khi có tranh chấp xảy ra. Nếu hai bên không thể thương lượng và hòa giải thì tranh chấp sẽ được giải quyết bằng Trọng tài và Tòa án theo các quy định của Luật Trọng tài thương mại 2010 và Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Trường hợp các bên tranh chấp lựa chọn đưa ra Trọng tài nước ngoài, Trọng tài quốc tế hay Trọng tài do các bên thỏa thuận lựa chọn thì phải tuân theo thủ tục tố tụng trọng tài của các Trung tâm trọng tài đó. Đây được coi là một trong những điều khoản về đảm bảo đầu tư có ảnh hưởng lớn đến quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.

Có thể thấy, pháp luật Việt Nam hiện hành đã đưa ra được cơ chế giải quyết tranh chấp khá đầy đủ và có nét tương đồng với các cam kết trong Hiệp định EVIPA. Tuy nhiên, trong quá trình thực thi, các quy định này vẫn còn bộc lộ nhiều bất cập. Chính vì vậy, Việt Nam cần có phương hướng để hoàn thiện khung pháp lý về cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư kinh doanh để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi Hiệp định EVIPA sau này

3.1.2. Đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo hộ đầu tư và tác động đến việc thực thi Hiệp định EVIPA

Luật Đầu tư 2020 của Việt Nam ra đời sau khi Hiệp định bảo hộ đầu tư Việt Nam-EU (EVIPA) được ký kết. Do đó, những quy định trong Luật Đầu tư 2020 nói chung và các biện pháp bảo đảm đầu tư nói riêng của Việt Nam đã được xây dựng và hoàn thiện dựa trên nền tảng của EVIPA cũng như các quy định về bảo hộ đầu tư của WTO. Tuy nhiên, để so sánh mức độ tương thích giữa pháp luật Việt Nam và EVIPA cần phải đối chiếu từng nội dung cụ thể. Mức độ tương thích giữa Luật Đầu tư 2020 và EVIPA càng cao thì việc thực thi Hiệp định EVIPA tại Việt Nam sẽ càng hiệu quả

3.1.2.1. Ưu điểm

Thứ nhất, để chuẩn bị cho việc thi hành các cam kết của EVIPA, Nhà nước Việt Nam đã tiến hành ban hành, sửa đổi, bổ sung một số các văn bản luật và dưới luật về lĩnh vực pháp luật đầu tư nói chung và bảo hộ đầu tư nói riêng. Điển hình là việc ban hành Luật Đầu tư 2020 với một số nội dung mới, nhằm đảm bảo độ tương thích với các quy định trong Hiệp định EVIPA về bảo hộ đầu tư. Có thể thấy, công tác chuẩn bị kĩ lưỡng về mặt lập pháp là ưu điểm lớn đối với Việt Nam trong quá trình chờ Hiệp định EVIPA có hiệu lực

Thứ hai, Luật Đầu tư 2020 quy định khá đầy đủ về các nguyên tắc bảo hộ đầu tư giống như trong Hiệp định EVIPA mặc dù Luật Đầu tư 2020 không quy định một điều khoản cụ thể nào về nguyên tắc Đối xử quốc gia (NT) và nguyên tắc Đối xử tối huệ quốc (MFN). Nhưng việc Luật Đầu tư cam kết bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho tất cả các nhà đầu tư không phân biệt nguồn vốn hay quốc tịch đã thể hiện rõ được tinh thần của MFN và NT. Vì vậy, nhìn chung Luật Đầu tư 2020 đã quy định khá đầy đủ các nguyên tắc về bảo hộ đầu tư và điều này tương đồng với Hiệp định EVIPA

Thứ ba, về các biện pháp bảo hộ đầu tư, Nhà nước Việt Nam đã thừa nhận quyền chuyển tài sản của Nhà đầu tư nước ngoài ra nước ngoài và cũng đã cụ thể hóa các tài sản được phép dịch chuyển. Quy định này trong Luật Đầu tư 2020 tương thích với cam kết trong Hiệp định EVIPA và có phần rõ ràng hơn

Thứ tư, về vấn đề bảo đảm quyền sở hữu tài sản của nhà đầu tư nước ngoài đã được ghi nhận trong Luật đầu tư 2020 của Việt Nam. Nhà đầu tư nước ngoài sẽ được bảo đảm quyền sở hữu tài sản của mình trước nguy cơ tài sản đó bị quốc hữu hóa. Nếu tài sản đó bị quốc hữu hóa vì lý do an ninh quốc phòng hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai… thì nhà đầu tư sẽ được thanh toán, bồi thường thỏa đáng. Quy định này có vai trò quan trọng trong việc giữ vững niềm tin của Nhà đầu tư về một môi trường đầu tư an toàn, minh bạch, công bằng. Và quy định này cũng hoàn toàn phù hợp với cam kết trong Hiệp định EVIPA

Thứ năm, về cơ chế giải quyết tranh chấp, Luật Đầu tư 2020 vẫn tiếp tục ưu tiên phương thức thương lượng và hòa giải giống như Hiệp định EVIPA. Theo đó, trong trường hợp hai bên không thể thương lượng, hòa giải thì tranh chấp về đầu tư kinh doanh đó mới được thụ lý bởi Trọng tài hoặc Tòa án. Bên cạnh đó, pháp luật Việt Nam cũng quy định chung về quyền lựa chọn một trong các cơ quan quan tài phán: Tòa án Việt Nam, Trọng tài Việt Nam, Trọng tài nước ngoài, Trọng tài quốc tế, Trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận thành lập. Do đó, pháp luật Việt Nam được coi là khá tương thích với Hiệp định EVIPA về cơ chế giải quyết tranh chấp

3.1.2.2. Hạn chế

Yếu tố đầu tiên tác động đến hiệu quả của việc thực thi Hiệp định EVIPA đó chính là mức độ tương thích giữa pháp luật đầu tư Việt Nam và các cam kết trong Hiệp định. Nhìn chung phần lớn các nội dung của pháp luật đầu tư Việt Nam về nguyên tắc bảo hộ đầu tư và các biện pháp bảo đảm đầu tư đều có mức tương đồng khá lớn so với các quy định của EVIPA. Tuy nhiên, vẫn còn một vài điều khoản của pháp luật đầu tư Việt Nam chưa tương thích với EVIPA, điều này sẽ hạn chế khả năng thực thi EVIPA tại Việt Nam. Cụ thể, những nội dung chưa tương thích hoặc chưa được quy định cụ thể như trong EVIPA đó là:

Thứ nhất, Luật Đầu tư 2020 chưa quy định về bồi thường thiệt hại cho Nhà đầu tư nước ngoài trong trường hợp xảy ra xung đột vũ trang. Pháp luật Việt Nam chỉ ghi nhận quyền được bồi thường của Nhà đầu tư nước ngoài trong trường hợp tài sản của Nhà đầu tư bị quốc hữu hóa. Trong khi tại điều 2.6 của Hiệp định EVIPA cam kết sẽ bảo hộ cho các khoản đầu tư của nhà đầu tư bị thiệt hại do chiến tranh hoặc xung đột vũ trang, cách mạng, tình trạng khẩn cấp quốc gia, nổi loạn, khởi nghĩa hoặc bạo loạn trên lãnh thổ của nước tiếp nhận đầu tư. Và Nhà nước của nước tiếp nhận đầu tư sẽ có nghĩa vụ hoàn trả, đền bù, bồi thường hoặc thực hiện giải pháp khác không kém thuận lợi hơn sự đối xử với Nhà đầu tư trong nước hay của bất kỳ nước thứ ba nào[41]. Thực tế cho thấy tình hình chính trị ở Việt Nam khá ổn định nhưng cũng không thể khẳng định chắc chắn rằng bạo loạn, xung đột vũ trang sẽ không xảy ra. Vì vậy việc pháp luật Việt Nam chưa ghi nhận điều khoản về bồi thường cho Nhà đầu tư nước ngoài trong trường hợp xảy ra xung đột vũ trang là một điểm thiếu sót và chưa tương thích với cam kết tại Điều 2.6 EVIPA

Thứ hai, biện pháp thế quyền chưa được ghi nhận tại Luật Đầu tư 2020 như một biện pháp bảo đảm đầu tư. Đây là một khái niệm pháp lý khá mới tại Việt Nam và chưa có nhiều văn bản quy định, hướng dẫn về thế quyền trong đầu tư quốc tế. Tuy nhiên, biện pháp này đã được ghi nhận tại Điều 2.9 của Hiệp định EVIPA. Việc chưa quy định về biện pháp thế quyền có thể sẽ gây ra lo ngại cho các Nhà đầu tư nước ngoài và hạn chế khả năng thực thi của Hiệp định

Thứ ba, Việt Nam chưa quy định về phạm vi áp dụng các biện pháp giải quyết tranh chấp giữa Nhà đầu tư nước ngoài và Nhà nước. Trong Hiệp định EVIPA, cơ chế giải quyết tranh chấp giữa Nhà đầu tư nước ngoài và nước tiếp nhận đầu tư được quy định rõ về phạm vi áp dụng đối với “tranh chấp giữa nguyên đơn của một Bên và Bên kia về biện pháp được cho là cấu thành vi phạm các điều khoản tại Chương 2 (Bảo hộ đầu tư) và được cho là gây thiệt hại cho nguyên đơn hoặc gây thiệt hại cho công ty thành lập trong nước nếu đơn khiếu kiện được nộp thay cho doanh nghiệp thành lập trong nước do nguyên đơn sở hữu hoặc quản lý”[42]. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam chưa quy định cụ thể về phạm vi tranh chấp có thể sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp này. Đây là một điểm chưa tương thích với EVIPA

Thứ tư, pháp luật Việt Nam mới chỉ dừng lại ở việc thừa nhận quyền được chuyển tài sản của Nhà đầu tư nước ngoài ra nước ngoài cùng với 3 nhóm tài sản được phép dịch chuyển mà chưa quy định cụ thể về nguyên tắc của việc dịch chuyển các tài sản này. Trong khi Hiệp định EVIPA quy định rất cụ thể về nguyên tắc đối với việc cho phép chuyển dịch tài sản ra nước ngoài của các Nhà đầu tư. Theo Hiệp định, Nhà nước các bên phải cho phép việc chuyển tiền liên quan đến khoản đầu tư được bảo hộ bằng bất kỳ đồng tiền tự do chuyển đổi nào, mà không có hạn chế hay sự chậm trễ nào và với tỉ giá thị trường hối đoái vào thời điểm chuyển đổi[43]. Bên cạnh đó, EVIPA cũng quy định chi tiết hơn pháp luật đầu tư Việt Nam về việc chuyển dịch các khoản góp vốn, các khoản lợi nhuận, các khoản thanh toán, thu nhập,…

Thứ năm, pháp luật Việt Nam chưa quy định cụ thể về các trường hợp tài sản của Nhà đầu tư nước ngoài bị trưng mua, trưng dụng. Mặc dù Việt Nam đã ban hành Luật Trưng mua, trưng dụng 2008 nhưng đến nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể việc thực hiện luật này dẫn tới thực tế thực thi còn gặp nhiều vướng mắc, không đạt được hiệu quả cao. Hệ quả là, Nhà đầu tư nước ngoài có nguy cơ bị chậm thanh toán các khoản bồi thường do hành vi trưng mua, trưng dụng của Nhà nước hoặc bị đánh thuế khoản bồi thường đó, gây mất long tin của Nhà đầu tư đối với Nhà nước Việt Nam

Bên cạnh những hạn chế từ sự không tương thích của hệ thống pháp luật đầu tư Việt Nam và Hiệp định EVIPA, vẫn còn một số các hạn chế khác, ảnh hưởng đến quá trình thực thi Hiệp định tại Việt Nam:

Thứ nhất, Việt Nam chưa gia nhập Công ước ICSID và Quy tắc phụ trợ ICSID, đồng thời cũng chưa công nhận Quy tắc trọng tài UNCITRAL. Trong khi đó, đối với phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, EVIPA không có quy định riêng về thủ tục tố tụng trọng tài áp dụng cho tranh chấp giữa nhà đầu tư và chính phủ của các bên. EVIPA chỉ quy định rằng khi có yêu cầu tòa án đầu tư giải quyết bằng phương thức trọng tài, bên nguyên đơn có quyền yêu cầu giải quyết theo Quy tắc phụ trợ của Trung tâm giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế (International Centre for Settlement of Investment Disputes – ICSID) hoặc Quy tắc trọng tài của Ủy ban Liên hợp quốc về Luật Thương mại quốc tế (United Nations Commission on International Trade Law – UNCITRAL). Tuy nhiên, Việt Nam chưa tham gia Công ước ICSID hay Quy tắc phụ trợ ICSID, đồng thời cũng chưa công nhận Quy tắc trọng tài UNCITRAL. Do vậy, nếu EVIPA có hiệu lực và đi vào thực thi, Việt Nam sẽ phải chấp nhận áp dụng và thực hiện các bộ quy tắc mà mình ít quen thuộc

Thứ hai, năng lực và trình độ chuyên môn của các ứng viên Việt Nam cho vị trí trong Tòa án đầu tư chưa cao. Việc giải quyết tranh chấp giữa chính phủ và nhà đầu tư bằng tòa án đầu tư là một phương thức giải quyết tranh chấp mới, được nhiều quốc gia ủng hộ nhằm thay thế trọng tài theo vụ/việc. EVIPA được ký kết đã đánh dấu cột mốc đầu tiên Việt Nam quy định phương thức giải quyết tranh chấp này trong hiệp định bảo hộ đầu tư của Việt Nam.Theo đó, hệ thống tòa án đầu tư theo EVIPA bao gồm tòa sơ thẩm và tòa phúc thẩm. Tòa sơ thẩm có chín thành viên, ba người mang quốc tịch EU, ba người là công dân Việt Nam và ba người là công dân của các nước thứ ba khác. Tòa phúc thẩm có sáu thành viên, trong đó có hai thành viên là công dân EU, hai thành viên là công dân Việt Nam và hai thành viên là công dân của các nước thứ ba khác. Các thành viên của cả hai hệ thống tòa này sẽ được ủy ban (được thành lập theo EVIPA, bao gồm đại diện của EU và Việt Nam để quản lý việc thực hiện EVIPA) bổ nhiệm với nhiệm kỳ 4 năm và có thể được tái bổ nhiệm một lần. Tuy vậy, năng lực và trình độ chuyên môn của các ứng viên có thể được Chính phủ Việt Nam đề cử để trở thành thành viên của tòa án đầu tư chưa được đánh giá cao. Năng lực yếu kém của các ứng viên có thể dẫn đến bất lợi cho Nhà nước Việt Nam trong các vụ kiện. Bên cạnh đó, sự độc lập và khách quan của các thành viên khác không mang quốc tịch Việt Nam cũng là vấn đề cần quan tâm và ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả của các vụ tranh chấp

Thứ ba, cơ chế giải quyết tranh chấp ngoài tòa án như hòa giải và thương lượng vẫn chưa được quan tâm nhiều tại Việt Nam. Vì vậy sau khi EVIPA có hiệu lực, Việt Nam sẽ phải đối mặt với áp lực của việc phải nâng cao hiệu quả của cơ chế giải quyết tranh chấp ngoài tòa án này. Chính điều này sẽ đặt ra những khó khăn không hề nhỏ nếu Việt Nam không chuẩn bị kỹ lưỡng và thiếu các chuyên gia, nguồn nhân lực cũng như năng lực và bộ máy để giải quyết tranh chấp theo các phương thức không mang tính tài phán này.

3.2. ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI HIỆP ĐỊNH BẢO HỘ ĐẦU TƯ VIỆT NAM-LIÊN MINH CHÂU ÂU (EVIPA) TẠI VIỆT NAM

3.2.1. Biện pháp hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam

Để chủ động nâng cao hiệu quả thực thi của EVIPA, Việt Nam cần chủ động áp dụng các biện pháp sau

Thứ nhất, tiếp tục sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, trình các cấp có thẩm quyền ban hành theo đúng lộ trình quy định trong EVIPA.  Bổ sung các quy định nhằm đảm bảo quyền lợi cho nhà đầu tư nước ngoài nhưng vẫn đảm bảo tính tương thích giữa pháp luật Việt Nam và các quy định của EVIPA. Một số các quy định của Luật đầu tư, mặc dù mới được sửa đổi bổ sung năm 2020, nhưng vẫn còn tồn tại nhiều sự khác nhau giữa pháp luật Việt Nam và EVIPA. Bổ sung các quy định về bồi thường thiệt hại cho Nhà đầu tư nước ngoài trong trường hợp xảy ra xung đột vũ trang, quy định về biện pháp thuế quyền như một biện pháp bảo đảm đầu tư, quy định dịch chuyển tài sản của nhà đầu tư nước ngoài. 

Thứ hai, đối với các quy định pháp luật đã được đề cập ở những văn bản pháp luật trong nước, như quy định về trưng mua tài sản của nhà đầu tư nước ngoài theo Luật trưng mua 2008, cần bổ sung các quy định và văn bản hướng dẫn thi hành về cơ chế này, nhất là khi ngày này ngày càng nhiều các nhà đầu tư vào Việt Nam. Điều này sẽ góp phần làm tăng lòng tin của các nhà đầu tư khi lựa chọn nước ta là nơi đầu tư vốn và nguồn lực với một môi trường công bằng và lành mạnh,

Thứ ba, để dự phòng giải quyết các tranh chấp phát sinh, cần bắt đầu thi hành, nhất quán, đúng lộ trình cam kết của Việt Nam về cơ chế công nhận và thi hành phán quyết của cơ quan giải quyết tranh chấp đầu tư theo Hiệp định EVIPA. Việc sửa đổi và xây dựng những thay đổi này cần đáp ứng việc yêu cầu đảm bảo tối đa lợi ích của cả Việt Nam khi thực hiện vừa bảo toàn được lợi ích cho các nhà đầu tư nước ngoài. Việc bổ sung cần đảm bảo tính khả thi, ổn định và thống nhất của hệ thống pháp luật Việt Nam về công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài.

3.2.2. Các biện pháp khác

Bện cạnh đó, các biện pháp chung giúp đẩy mạnh việc thực thi EVIPA tại Việt Nam bao gồm:

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật để đảm bảo tính nhất quán, đồng bộ, công bằng, minh bạch, không phân biệt đối xử, đúng trình tự thủ tục nhằm hạn chế tranh chấp phát sinh với nhà đầu tư nước ngoài và giải quyết có hiệu quả những tranh chấp này, đồng thời cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế cảnh báo sớm để phòng ngừa tranh chấp.

Thứ hai, Việt Nam cần tăng cường minh bạch hóa trong các hoạt động quản lý nhà nước về đầu tư, bảo đảm các quy định pháp luật về đầu tư phải được thực hiện tuân thủ đầy đủ quy trình thủ tục, cũng như bảo đảm tính minh bạch trong việc cấp, thu hồi và quản lý dự án đầu tư, không phân biệt đối xử. Ngoài ra, Việt Nam cần nâng cao hiệu quả công tác thi hành pháp luật và giám sát thi hành pháp luật, nâng cao hiệu quả công tác hỗ trợ sau đầu tư nhằm hạn chế và phòng ngừa tranh chấp phát sinh với nhà đầu tư nước ngoài. 

Thứ ba, cần đẩy mạnh công tác phổ biến, hướng dẫn và tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp, nhà đầu tư và cơ quan quản lý Nhà nước để đảm bảo thực hiện đầy đủ, nhất quán các quy định của pháp luật Việt Nam và Hiệp định. Bên cạnh việc xây dựng và sửa đổi, bổ sung các quy định mới, cần đẩy mạnh công tác phổ biến pháp luật đến các doanh nghiệp trong nước về sự thay đổi mới trong các quy định pháp luật. Điều này nhằm chuẩn bị cho các doanh nghiệp trong tiến trình thu hút và hợp tác kinh doanh với các nhà đầu tư nước ngoài theo Hiệp định EVIPA, nâng cao năng lực cán bộ phụ trách pháp chế, tránh xảy ra các tranh chấp cho các doanh nghiệp.

Thứ tư, cần tăng cường thu hút nguồn vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản trị tiên tiến của EU, trong đó chú trọng chuyển mạnh từ số lượng sang chất lượng, ưu tiên các dự án có quản trị hiện đại, có giá trị gia tăng cao, có tác động lan tỏa, kết nối chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu, gắn kết hữu cơ với khu vực kinh tế trong nước, đồng thời phù hợp với giải pháp cơ cấu lại nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng, năng suất và tính cạnh tranh của nền kinh tế, bảo đảm mục tiêu phát triển bền vững, bảo vệ môi trường và công bằng xã hội.

Thứ năm, Song song với các biện pháp trên cần phải phát triển kết cấu hạ tầng, dịch vụ logistic, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; cải thiện hệ thống các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về sản phẩm, tài nguyên phù hợp với tiêu chuẩn của khu vực và thế giới để tạo cơ sở pháp lý cho việc thu hút các dự án đầu tư chất lượng cao, chủ động đẩy mạnh ứng dụng các công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, năng suất lao động nhằm nâng cao sức cạnh tranh, chất lượng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đáp ứng tiêu chuẩn của châu Âu, tận dụng hiệu quả những cơ hội từ EVIPA mang lại

Trong bối cảnh hội nhập, vốn đầu tư nước ngoài đã và đang khẳng định vai trò của nó trong qúa trình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước ta. Các biện pháp khuyến khích và bảo hộ đầu tư có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh cũng như thu hút vốn đầu tư tại Việt Nam. Các biện pháp khuyến khích và bảo hộ đầu tư sẽ được quy định cụ thể trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết hoặc trong pháp luật của quốc gia. Vào năm 2019, một trong những điều ước quốc tế nổi bật mà Việt Nam ký kết về bảo hộ đầu tư đó là Hiệp định bảo hộ đầu tư Việt Nam- Liên minh châu Âu (EVIPA). Hiệp định sẽ có hiệu lực khi tất cả các quốc gia thành viên Liên minh châu Âu thống nhất thông qua. Khi phát sinh hiệu lực và đưa vào thực thi, Hiệp định sẽ trở thành bệ đỡ cho các Nhà đầu tư Việt Nam và Liên minh châu Âu tiến hành hoạt động đầu tư tại các quốc gia là thành viên của Hiệp định một cách thuận lợi hơn

Bài luận đã làm rõ một số vấn đề lý luận về bảo hộ đầu tư quốc tế như: khái niệm đầu tư, bảo hộ đầu tư, hệ thống pháp luật của bảo hộ đầu tư, vai trò của bảo hộ đầu tư,…Tiếp đó, bài luận đi vào giới thiệu và phân tích cụ thể các quy định trong EVIPA. Qua đó, đánh giá mức độ tương thích giữa hiệp định và pháp luật Việt Nam; đồng thời đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi khi hiệp định phát sinh hiệu lực. Thực tế cho thấy thấy, phần lớn các nhà đầu tư nước ngoài từ Châu Âu đều cam kết mở rộng đầu tư lâu dài tại Việt Nam. Điều này đã chứng minh cho sức hút đáng kể của môi trường đầu tư tại Việt Nam. Tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế bất cập phát sinh trong quá trình thực thi pháp luật đầu tư nói chung, pháp luật về bảo hộ đầu tư nói riêng tại Việt Nam. Do đó, đòi hỏi cần phải có giải pháp kịp thời nhằm nâng cao tính tương thích giữa pháp luật Việt Nam và Hiệp định EVIPA cũng như để đẩy mạnh hiệu quả thực thi hiệp định tại Việt Nam trong thời gian tới.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Giáo trình, sách tham khảo

  1. Đại học luật Hà Nội (2011), Giáo trình luật đầu tư, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội
  2. Đại học luật Hà Nội & Mutrap (2017), Giáo trình Luật đầu tư quốc tế, Nhà xuất bản Tuổi Trẻ, Hà Nội
  3. Viện ngôn ngữ học (2013), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Từ điển Bách Khoa, Hà Nội

II. Văn bản pháp luật

  1. Hiến pháp
  2. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam số 52-L/CTN
  3. Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật đầu tư số 59/2005/QH11
  4. Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Luật đất đai số 45/2013/QH13
  5. Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật đầu tư số 67/2014/QH13
  6. Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13
  7. Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2020), Luật đầu tư số 61/2020/QH14
  8. Chính phủ (2021), Nghị định 31/2021/NĐ-CP ngày 26 tháng 3 năm 2021 Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư
  9. – ICSID (1965)
  1. Việt Nam& Liên minh châu Âu (2020), Hiệp định Bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu – EVIPA

[1] Trang 301, Từ điển tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học 2013

[3] Khoản 1 Điều 3 Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996

[4] Khoản 1 Điều 3 Luật đầu tư 2005

[5] Khoản 5 Điều 3 Luật đầu tư 2014

[6] Khoản 8 Điều 3 Luật đầu tư 2020

[7] Điều 4 Hiệp định Đầu tư toàn diện ASEAN

[8] Điều 9.1 Hiệp định đối tác thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP)

[11] Theo điểm a Khoản 2 Điều 1 Hiệp định Khuyến khích và bảo hộ đầu tư Việt Nam-Hàn Quốc

[12] Khoản 19 Điều 3 Luật Đầu tư 2020

[13] Điều 74 Bộ Luật dân sự 2015

[14] Theo điểm b Điều 1.2 Hiệp định Bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVIPA)

[15] Theo điểm b Khoản 2 Điều 1 Hiệp định Khuyến khích và bảo hộ đầu tư Việt Nam-Hàn Quốc

[16] Theo Điều 9.28 Công ước về Giải quyết Tranh chấp Đầu tư giữa Nhà nước và công dân của Nước khác (ICSID)

[17] Khoản 1 Điều 1 Hiệp định Khuyến khích và bảo hộ đầu tư Việt Nam-Hàn Quốc

[18] Khoản 2 Điều 1 Hiệp định Khuyến khích và bảo hộ đầu tư Việt Nam-Singapore

[19] Theo Chương II Luật đầu tư Việt Nam 2020

[20] Khoản 2 Điều 2 Hiệp định Khuyến khích và bảo hộ đầu tư Việt Nam-Hàn Quốc

[21] https://investmentpolicy.unctad.org/

[22] Khoản 1, Điều 2.3 Hiệp định EVIPA

[23] Các BIT mà Việt Nam tham gia sử dụng nhiều thuật ngữ khác nhau để chỉ hành vi tước quyền sở hữu của nhà đầu tư. Ví dụ, BIT Việt Nam – Nhật Bản (2003) đề cập biện pháp “trưng thu”, “quốc hữu hóa” hoặc “bất kỳ những biện pháp nào tương tự”; BIT Việt Nam – Vương quốc Anh (2002) dùng thuật ngữ “quốc hữu hóa”, “trưng dụng” hoặc “các biện pháp có tác dụng tương tự”; BIT Việt Nam – Pháp (1992) nói đến biện pháp “trưng thu”, “quốc hữu hóa” hoặc những “biện pháp tước quyền sở hữu”; BIT Việt Nam – Armenia (1992) dùng thuật ngữ “tịch thu”, “quốc hữu hóa” hoặc các “biện pháp có tính chất và hậu quả tương tự”…

[25] Xem UNCTAD, Taking of property, UNCTAD Series on issues in international investment agreements, New York and Geneva, 2000, tr. 19 – 23.

[26] Điều 33 Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam 2013

[27] Khoản 5 Điều 5 Luật Đầu tư 2020

[28] Điều 5 Luật Đất đai 2013

[30] Điều 20 Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1996

[31] Nguyễn Quỳnh Anh (2020)- Luận án tiến sĩ “Lý luận và thực tiễn về bảo hộ đầu tư theo các hiệp định về đầu tư của ASEAN trong giai đoạn hiện nay”, Đại học Luật Hà Nội

[33] Khoản 1 và khoản 2 Điều 32 Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam 2013

[34] Khoản 2 Điều 11 Luật Đầu tư 2020

[35] Điều 12 Luật Đầu tư 2020

[36] Nguyễn Quỳnh Anh (2020)- Luận án tiến sĩ “Lý luận và thực tiễn về bảo hộ đầu tư theo các hiệp định về đầu tư của ASEAN trong giai đoạn hiện nay”, Đại học Luật Hà Nội

[37] Khoản 1 và Khoản 2 Điều 13 Luật Đầu tư 2020

[38] Khoản 4 Điều 13 Luật Đầu tư 2020

[39] Điều 4 Nghị định 31/2021/NĐ-CP ngày 26 tháng 3 năm 2021 Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư

[40] Khoản 1 Điều 14 Luật Đầu tư 2020

[41] Điều 2.6 Hiệp định Bảo hộ đầu tư Việt Nam-Liên Minh Châu Âu (EU)

[42] Khoản 1 Điều 3.27 Hiệp định Bảo hộ đầu tư Việt Nam-Liên Minh Châu Âu (EU)

[43] Điều 2.8 Hiệp định Bảo hộ đầu tư Việt Nam-Liên Minh Châu Âu (EU)

Bài luận liên quan:

1900.0191