Đề tài: Phân tích các yếu tố xã hội tác động đến hoạt động xây dựng pháp luật. Cho ví dụ gắn với một đạo luật cụ thể ở nước ta.
Hoạt động xây dựng pháp luật là lĩnh vực hoạt động cơ bản, quan trọng của nhà nước nên nó là lĩnh vực thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của các nhà luật học và các nhà xã hội học pháp luật, trở thành đối tượng nghiên cứu của cả luật học và xã hội học pháp luật. Không phải ngẫu nhiên mà trong tác phẩm “Tinh thần pháp luật” của S.L. Montesquieu và “Bàn về khế ước xã hội” của J.J. Rousseau – những tác phẩm được coi là đặt nền móng cho xã hội học pháp luật – các tác giả đều dành phần thích đáng để để bàn về vấn đề lập pháp.
“Phân tích các yếu tố xã hội tác động đến hoạt động xây dựng pháp luật. Cho ví dụ gắn với một đạo luật cụ thể ở nước ta”
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ XÂY DỰNG PHÁP LUẬT
1. Khái niệm xây dựng pháp luật
Có rất nhiều các quan điểm, cách hiểu khác nhau về xây dựng pháp luật. Theo nghĩa hẹp: xây dựng pháp luật chỉ bao gồm các công việc ban hành, thông qua văn bản quy phạm pháp luật. Theo nghĩa rộng: Hoạt động xây dựng pháp luật bao gồm các hoạt động nghiên cứu khoa học nhằm thu thập các luận cứ, làm sáng tỏ những cơ sở lý luận, thực tiễn và pháp lý liên quan đến văn bản luật đang cần xây dựng, ban hành; tổ chức hội thảo, hội nghị, lấy ý kiến đóng góp dự thảo văn bản luật; theo dõi thực tế áp dụng văn bản luật trong cuộc sống phục vụ việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện văn bản luật cả về mặt nội dung lẫn hình thức diễn đạt, trình bày. Quan điểm được thừa nhận chung là quan điểm xây dựng pháp luật theo nghĩa rộng. Vì thực tế để có được một văn bản quy phạm pháp luật cần phải trải qua một quá trình khó khăn phức tạp với sự tham gia của nhiều chủ thể khác nhau, nhiều công đoạn khác nhau.
2. Chủ thể của hoạt động xây dựng pháp luật
Thứ nhất, các cơ quan nhà nước, nhà chức trách có thẩm quyền (Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã; mà còn có các tổ chức chính trị – xã hội được giao những nhiệm vụ thuộc chức năng quản lý nhà nước.
Thứ hai, nhân dân là chủ thể rộng rãi của hoạt động xây dựng pháp luật, thể hiện rõ nét trong các cuộc vận động đóng góp ý kiến vào những văn bản pháp luật, kiến nghị bổ sung, sửa đổi văn bản cho phù hợp hơn với thực tế cuộc sống.
Thứ ba, các cơ quan của Đảng cũng tham gia tích cực vào hoạt động xây dựng pháp luật. Hoạt động xây dựng pháp luật ở nước ta có nhiệm vụ thể chế hóa đầy đủ, đồng bộ, nhất quán, và kịp thời các đường lối, chủ trương của Đảng. Đường lối, chủ trương của Đảng vừa chỉ đạo xây dựng pháp luật, vừa là nội dung của hoạt động này. [1]
II. CÁC YẾU TỐ XÃ HỘI ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG PHÁP LUẬT
1. Về quy trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật
Hiện nay chúng ta đã có Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (cả ở Trung ương và địa phương). Tuy nhiên, tính khả thi và chất lượng của dự án, dự thảo phụ thuộc nhiều vào quy trình ban hành, soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật. Theo các quy định pháp luật hiện hành, quy trình ban hành văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ là 23 bước. Mỗi bước lại có những quy định cụ thể rất phức tạp không cần thiết. Trong quá trình soạn thảo, các thành viên của Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ, các Bộ, ngành được mời là thành viên Ban soạn thảo. Vậy có cần thiết phải thực hiện thủ tục thẩm định, thẩm tra, xin ý kiến của các Bộ, ngành này v.v…)
Quy trình xây dựng là cần thiết, nên tập trung vào những khâu, giai đoạn quan trọng, không nên quá câu nệ vào hình thức mà bỏ khâu nội dung. Để có hiệu quả, quy trình cần tập trung:
Thứ nhất, thành lập Ban soạn thảo (bao gồm các nhà quản lý, các chuyên gia, các nhà khoa học của các cơ quan, tổ chức có liên quan); thành lập Tổ biên tập gồm các chuyên gia giỏi ở các Bộ, ngành , trường đại học, viện nghiên cứu có liên quan đến chuyên môn và luật học.
Thứ hai, đánh giá các quan hệ xã hội mà các quy phạm (dự kiến) sẽ điều chỉnh (cần sử dụng phương pháp xã hội học, so sánh pháp luật…để tham khảo các ý kiến cần thiết); đồng thời, tổng kết thực tiễn các hoạt động liên quan đến các quy phạm đã có (trong trường hợp sửa đổi, bổ sung) hoặc chưa có pháp luật điều chỉnh nhưng đã có tiền lệ hoặc các tranh chấp xã hội đã phát sinh…
Thứ ba, lấy ý kiến nhân dân, các đối tượng chịu sự tác động của các văn bản quy phạm pháp luật nhằm công khai, minh bạch hoá chính sách, đồng thời tiếp nhận các phản hồi (cả tiêu cực và tích cực) đối với dự án, dự thảo. Tuy nhiên, việc triển khai các quy định trong thực tiễn còn nhiều hạn chế, đặc biệt là nhận thức của các cơ quan chủ trì soạn thảo về các nội dung cần xin ý kiến và tiếp thu ra sao.
Thứ tư, trình các dự án, dự thảo. Điểm mấu chốt của việc trình không phải là các thủ tục mà là trình bày các quan điểm khác nhau trong quá trình soạn thảo và quyết định các nội dung đưa vào trong các dự án, dự thảo. Các nội dung trên, thực chất là đòi hỏi một quy trình xây dựng pháp luật thực sự khoa học, bảo đảm tính thời gian và chất lượng của việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
2. Về dư luận xã hội
Dư luận xã hội là tập hợp các ý kiến, thái độ có tính chất phán xét, đánh giá của các nhóm xã hội hay của xã hội nói chung trước những vấn đề mang tính thời sự, có liên quan đến lợi ích chung, thu hút được sự quan tâm của nhiều người và được thể hiện trong các nhận định hoặc hành động thực tiễn của họ. Trong bất kì xã hội nào, dư luận xã hội cũng đều có ảnh hưởng nhất định và trong nhiều trường hợp, còn có tác động mạnh mẽ đến quá trình chính trị, xã hội đến việc lãnh đạo và quản lí xã hội. Ở nước ta hiện nay sự ảnh hưởng đó thể hiện trên các phương tiện sau:
Một là, dư luận xã hội là sự thể hiện lợi ích chung thông qua tiếng nói chung của nhân dân, nên nó là điều kiện cần thiết để các tầng lớp nhân dân phát huy quyền làm chủ xã hội mở rộng nền dân chủ xã hội, tích cực tham gia vào hoạt động pháp luật. Hiến pháp của nước ta đã khẳng định nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân đồng thời thiết lập cơ chế bảo đảm lợi ích của nhân dân và luôn nằm dưới sự kiểm soát của nhân dâm. Dưới chế độ đất nước ta hiện nay, nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua hai hình thức cơ bản là dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.
Hai là, dư luận xã hội là nguồn thông tin phản hồi có ý nghĩa rất quan trọng và thiết thực với quá trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật, đối với việc ban hành các quyết định của các cá nhân, nhà chức trách có thẩm quyền. Để có các văn bản pháp luật sát thực tế, các văn bản quản lí hành chính nhà nước đúng đắn, có tính khả thi cao, trước khi xây dựng, soạn thảo các dự án luật hay ban hành các quyết định, các cơ quan lập pháp, các cơ quan quản lí phải nắm bắt được thực trạng tư tưởng, tâm lí các đối tượng xã hội và văn bản pháp luật. Mọi chủ trương, chính sách pháp luật khó có thể trở thành hiện thực nếu không hợp lòng dân, không được nhân dân ủng hộ. Khi đã có các dự án luật, thông tin phản hồi lại càng quan trọng. Từ đó, dư luận xã hội là một trong những cơ sở thông tin phản hồi giúp các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đưa ra các văn bản quyết định phù hợp lòng dân, có tác dụng phát hiện những vướng mắc, lệch lạc trong các quy phạm pháp luật giúp Nhà nước có biện pháp sửa đổi, bổ sung kịp thời.
Ba là, dư luận xã hội không mang tính pháp lý nhưng nó lại có sức mạnh rất to lớn trong việc định hướng và điều chỉnh hành vi, hoạt động của các thành viên trong xã hội. Trong hoạt động xây dựng pháp luật, các cá nhân, nhà chức trách có thẩm quyền, với tư cách là chủ thể xây dựng pháp luật, cần phải biết lắng nghe dư luận xã hội một cách nghiêm túc và phân tích nó một cách khoa học để có thể rút ra được những kết luận chính xác về thực trạng của những lĩnh vực quan hệ xã hội đang cần có pháp luật điều chỉnh. Nhờ đó, Nhà nước có thể ban hành pháp luật một cách kịp thời, đồng bộ và hiệu quả; tác động đúng phạm vi, đúng đối tượng cần điều chỉnh; góp phần tăng cường vai trò và hiệu lực của công tác quản lý xã hội bằng pháp luật.
3. Thông tin đại chúng
Sự hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, phát thanh, truyền hình có tác động rất mạnh mẽ và quan trọng tới hoạt động xây dựng pháp luật, thể hiện ở các điểm sau:
Một là, các phương tiện thông tin đại chúng cung cấp thông tin tương đối đầy đủ và đa dạng về các sự việc, sự kiện, hiện tượng pháp lý xảy ra trong hệ thống chính trị, xã hội, pháp luật, phản ánh hoạt động tiếp xúc cử tri của các đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, đưa tin về các kỳ họp Quốc hội… Qua đó, các phương tiện truyền thông tác động tới nhận thức của các chủ thể về tầm quan trọng của hoạt động xây dựng pháp luật, tạo cơ sở thông tin để các tầng lớp xã hội tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật.
Hai là, các phương tiện thông tin đại chúng đăng tải những thông tin về chính sách pháp luật của nhà nước, các dự thảo văn bản pháp luật mới, đưa các thông tin đó đến được với đông đảo các tầng lớp nhân dân. Thông tin đại chúng tạo diễn đàn ngôn luận để các chủ thể của hoạt động xây dựng pháp luật tham gia bình luận, phân tích, đóng góp ý kiến vào hình thức, nội dung, cấu trúc của văn bản pháp luật. Đồng thời các phương tiện thông tin đại chúng đăng tải các thông tin phản hồi, các ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, càng tầng lớp nhân dân cho xây dựng pháp luật. Bằng cách tác động đó, thông tin đại chúng giúp cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tập hợp thông tin, xử lí và chọn lọc các ý kiến xác đáng phục vụ cho việc sửa đổi, bổ sung và ngày càng hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật.
Ba là, các phương tiện thông tin đại chúng có vai trò định hướng thông tin pháp luật, tạo thành các luồng dư luận tích cực phản ánh xây dựng pháp luật; góp phần đấu tranh chống lại các âm mưu phá hoại, các luật điệu tuyên truyền, xuyên tạc và bịa đặt các thế lực thù địch về nội dung và bản chất hệ thống pháp luật của nhà nước ta; củng cố niềm tin của nhân dân vào bản chất ưu việt của hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa.
4. Về thời gian và kinh phí
Hiện nay, Nhà nước chưa có sự đầu tư thích đáng về thời gian cho công tác xây dựng pháp luật. Chương trình phiên họp Chính phủ, các bộ, ngành hàng tháng cũng chưa chú trọng đặt vấn đề đưa các dự thảo văn bản ra thảo luận một cách kỹ lưỡng. Một số dự án, dự thảo còn chạy theo chương trình, không đủ thời gian để thực hiện các yêu cầu của cơ chế xây dựng pháp luật (thiếu khảo sát, đánh giá, thiếu thông tin và thời gian bàn thảo).
Kinh phí dành cho xây dựng pháp luật cũng có nhiều bất cập. Số tiền “hỗ trợ” cho công tác này chưa đủ, không tương xứng với sức lao động của các chuyên gia, các nhà khoa học. Kinh phí của cả Khoá Quốc hội chưa đầy 10 tỷ đồng cho các dự án luật, pháp lệnh; tại các Bộ, ngành thì rất hạn hẹp (thẩm tra cho 1 dự thảo nghị định là 200.000 đồng)…Thủ tục cấp kinh phí quá rườm rà, hình thức. Cần xác định việc xây dựng pháp luật chính là xây dựng chính sách. Một chính sách không đảm bảo các yêu cầu phát triển kinh tế xã hội sẽ có tác hại hơn nhiều so với các nhược điểm dưới các hình thức đầu tư lãng phí, tham nhũng cụ thể tại các ngành kinh tế – xã hội. Do đó, cần đầu tư một cách cân đối kinh phí giữa việc xây dựng pháp luật với các hình thức đầu tư khác.[2]
III. THỰC TIỄN TRONG VIỆC XÂY DỰNG PHÁP LUẬT TẠI VIỆT NAM
Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi tắt là Bộ luật Hình sự năm 2015) ra đời đánh dấu một bước tiến quan trọng, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả; góp phần bảo vệ chủ quyền, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước và tổ chức, bảo vệ và thúc đẩy kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa phát triển đúng hướng, tạo môi trường xã hội và môi trường sinh thái an toàn, lành mạnh cho mọi người dân, đồng thời đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.[3]
Cụ thể, Bộ luật Hình sự năm 2015 có những nội dung sửa đổi, bổ sung góp phần tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta.
Thứ nhất, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã bổ sung quy định không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội tham ô, tội nhận hối lộ[4]thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng (quy định tại khoản 3 và khoản 4 của các Điều 353, 354). Quy định này nhằm khẳng định chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là xử lý đến cùng tội phạm tham nhũng, đồng thời góp phần tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Thứ hai, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã mở rộng phạm vi xử lý tội tham nhũng ra cả khu vực tư nhân. Theo đó, người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước mà thực hiện hành vi tham ô tài sản, nhận hối lộ thì cũng bị xử lý về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ theo quy định tại các Điều 353, 354 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Ngoài ra, người có hành vi đưa hối lộ hoặc môi giới hối lộ cho công chức nước ngoài, công chức của tổ chức quốc tế công, người có chức vụ trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước thì cũng bị xử lý về tội đưa hối lộ hoặc tội môi giới hối lộ theo quy định tại các Điều 364, 365 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Quy định này nhằm góp phần tăng cường đấu tranh phòng, chống tham nhũng, đồng thời, cũng nhằm thực thi Công ước quốc tế về chống tham nhũng mà nước ta là thành viên.
Sở dĩ, nguyên nhân cần phải khắc phục sửa đổi, bổ sung bộ luật cũ là do những sai sót rõ ràng về kỹ thuật, kết hợp xử lý những quy định chưa hợp lý hoặc có khả năng khó áp dụng trên thực tế nhằm có cách hiểu thống nhất BLHS năm 2015. Đồng thời, trong một chừng mực nhất định, một số quy định của BLHS chưa thể cụ thể hóa ngay được thì vẫn phải có văn bản quy định chi tiết của Chính phủ hoặc nghị quyết hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật và án lệ do Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành. Tuy nhiên, Uỷ ban Tư pháp nhấn mạnh việc sửa đổi phải trên cơ sở rà soát, phát hiện đầy đủ các sai sót của BLHS năm 2015. Hơn thế nữa, đối với những quy định có thể dẫn đến tùy tiện trong áp dụng hoặc thiếu nhất quán về chính sách hình sự hoặc chưa phân hóa tội phạm, nội dung thiếu rõ ràng mâu thuẫn với luật chuyên ngành… thì cũng cần nghiên cứu để sửa đổi nhằm bảo đảm tính thống nhất của cả Bộ luật cũng như với các đạo luật khác.
Thời gian qua, công tác xây dựng pháp luật đã góp phần quan trọng trong việc tạo ra môi trường pháp lý thông thoáng, bình đẳng để ổn định xã hội và phát triển kinh tế. Công tác xây dựng pháp luật được đẩy mạnh nhờ sự ra đời của các đạo luật về ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Bên cạnh đó, cần tiếp tục đổi mới tư duy trong xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật để thấy được mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng và thi hành pháp luật, từ đó thiết lập được sự liên thông trong xây dựng pháp luật, thi hành pháp luật, tránh tình trạng khép kín, thuần túy dựa vào sức mạnh cưỡng chế của nhà nước để thi hành văn bản. Nghiên cứu, tiếp tục hoàn thiện thể chế về ban hành văn bản quy phạm pháp luật vì đây là cơ sở pháp lý quan trọng nhất của công tác xây dựng pháp luật.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật Hình sự năm 2015 2. Ngọ Văn Nhân, Xã hội học pháp luật, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội.
[1] Ngọ Văn Nhân, Xã hội học pháp luật, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, tr. 280.
[4] Điều 28 Bộ luật Hình sự năm 2015
Một số bài luận liên quan:
- Đánh giá các quy định của Bộ luật Lao động năm 2019 về chủ thể thương lượng tập thể
- Cấu trúc của thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất ASEAN – Phân tích yếu tố Tự do di chuyển đầu tư
- Uỷ thác thi hành án dân sự – Phân tích, đánh giá, đề xuất kiến nghị hoàn thiện
- Trách nhiệm giải quyết việc làm đối với người khuyết tật
- Phân tích các khía cạnh pháp lí của quản lí nhà nước về giao thông đường bộ
- Phân tích quy định của pháp luật về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức
- Sự thay đổi các quy định về chi phí được trừ trong Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp kể từ Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 1997 cho đến nay
- Phân tích các điều kiện để một khoản chi phí của doanh nghiệp được khấu trừ khi tính thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp
- Phân tích những điểm khác nhau giữa quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp
- Dịch vụ logistics bao gồm chuỗi các dịch vụ – Khái quát Bình luận Thực trạng