YÊU CẦU VỀ “MỐI LIÊN HỆ GẮN BÓ” TRONG THỎA THUẬN CHỌN LUẬT THEO PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƯỚC VÀ NHỮNG NỘI DUNG CÓ THỂ THAM KHẢO

YÊU CẦU VỀ “MỐI LIÊN HỆ GẮN BÓ” TRONG THỎA THUẬN CHỌN LUẬT THEO PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƯỚC VÀ NHỮNG NỘI DUNG CÓ THỂ THAM KHẢO

THS. PHAN HOÀI NAM – Khoa Luật Quốc tế, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh

1. Yêu cầu về “mối liên hệ gắn bó” trong thoả thuận chọn luật theo pháp luật EU và một số quốc gia thành viên

Nguyên tắc đồng thuận giữa các bên trong hợp đồng đã thu hút được sự chú ý của giới nghiên cứu và những nhà làm luật EU trong thời gian gần đây, đặc biệt là trong quá trình thống nhất tư pháp quốc tế (TPQT) EU[1]. Trong đó, việc thống nhất các nội dung được thể chế hoá từ nguyên tắc tự định đoạt của các bên trong TPQT tại EU được xác định là tương đối khó. Bởi vì quyền tự định đoạt sẽ bị những giới hạn mang tính ràng buộc với các vấn đề liên quan đến quyền tài phán, lợi ích công cộng gắn với yếu tố chủ quyền quốc gia hoặc những giá trị khác mà nhà nước của các quốc gia thành viên mong muốn bảo vệ… Điều đó có nghĩa là những thoả thuận đó không thể ngăn được toà án của các quốc gia có thể từ chối sự thoả thuận trên cơ sở quyền tự định đoạt với những lý do liên quan đến chính sách công, những nguyên tắc cơ bản trong hệ thống pháp luật của từng quốc gia thành viên[2]. Bên cạnh đó, những sự khác biệt về các lĩnh vực, phạm vi của sự đồng thuận được cho phép… cũng trở thành rào cản lớn cho quá trình này.

Tuy nhiên, trong những chừng mực nhất định, các quyền này đã được thừa nhận dựa trên việc đảm bảo tính dung hoà với lợi ích của các quốc gia thành viên, và đã được cụ thể hoá trong các văn bản pháp quy mà EU đã ban hành. Cụ thể, theo khoản 1 Điều 3 Nghị định Rome I[3], quy định về sự ưu tiên áp dụng nguồn luật theo sự thoả thuận giữa các bên trong tranh chấp hợp đồng mà không đặt ra yêu cầu về sự kết nối giữa nguồn luật được lựa chọn với tranh chấp hoặc các bên trong tranh chấp. Thực tiễn của EU cũng cho thấy, điều kiện về mối liên hệ gắn bó không được đề cập mà chỉ đặt ra yêu cầu về tính hiệu lực hiện hành của nguồn luật được lựa chọn[4]. Tuy nhiên, một cách gián tiếp, thông qua các quy định khác điều chỉnh về các điều kiện có hiệu lực của thoả thuận chọn luật tại Nghị định Rome I cũng như giải thích của Toà án Công lý Châu Âu (ECJ), yêu cầu về mối liên hệ gắn bó có thể xảy ra trong các trường hợp sau:

Thứ nhất, khoản 3 Điều 3 quy định: “Nếu tại thời điểm ký kết hợp đồng, tất cả các yếu tố liên quan đến vụ việc được xác lập tại một quốc gia không phải là nơi có luật áp dụng thì luật của quốc gia đó sẽ được áp dụng bất kể thoả thuận của các bên”[5]. Điều này có nghĩa là, khi tất cả các yếu tố có liên quan đến quan hệ hợp đồng tại thời điểm hợp đồng được ký như nơi cư trú, nơi đặt trụ sở, nơi có tài sản là đối tượng của hợp đồng… đều toạ lạc tại cùng địa điểm với nơi giao kết hợp đồng đó thì luật nơi giao kết hợp đồng đó sẽ được áp dụng, bất kể giữa các bên đã có thoả thuận chọn luật. Như vậy, trong trường hợp này, nguồn luật có sự gắn bó với tranh chấp sẽ được áp dụng thay cho nguồn luật theo sự thoả thuận giữa các bên.

Thứ hai,theo quy định của Điều 9 và Điều 21, kể cả các bên có thoả thuận chọn luật áp dụng nhưng sự thoả thuận đó trái với các điều khoản bắt buộc (mandatory rules) và chính sách công (public policy hay còn gọi là ordre public) trong pháp luật của các quốc gia thành viên thì sự thoả thuận đó cũng sẽ không được chấp nhận. Việc đặt ra quy định này nhằm hướng đến việc bảo vệ những lợi ích công cộng liên quan đến các yếu tố về chính trị, kinh tế, xã hội của quốc gia có toà án thụ lý tranh chấp. Những điều khoản bắt buộc trong pháp luật quốc nội của các quốc gia thành viên có thể chỉ cho phép các bên được quyền lựa chọn pháp luật theo sự chỉ định cụ thể dựa trên yêu cầu về mối liên hệ gắn bó với tranh chấp.

Thứ ba,nguồn luật theo sự thoả thuận sẽ bị hạn chế trong quan hệ hợp đồng vận chuyển và hợp đồng bảo hiểm[6]. Theo đó, các bên trong tranh chấp chỉ được quyền lựa chọn hệ thống pháp luật có sự kết nối nhất định đối với tranh chấp hoặc các bên trong tranh chấp theo sự liệt kê của Nghị định. Cụ thể, đối với hợp đồng vận chuyển, các bên chỉ được quyền thoả thuận lựa chọn pháp luật nơi cư trú của bên thuê vận chuyển hoặc pháp luật của nước nơi bên vận chuyển cư trú, hoặc pháp luật của nước nơi bên vận chuyển có trung tâm quản lý hành chính, hoặc pháp luật của nước nơi hàng hoá được chuyển đi, hoặc pháp luật của nước nơi hàng hoá được chuyển đến. Đối với hợp đồng bảo hiểm, các bên chỉ được thỏa thuận chọn luật áp dụng là pháp luật của quốc gia thành viên nơi mà rủi ro xảy ra vào thời điểm hợp đồng được ký kết, hoặc pháp luật của quốc gia nơi bên mua bảo hiểm cư trú, hoặc đối với bảo hiểm nhân thọ, pháp luật của quốc gia thành viên nơi bên mua bảo hiểm là công dân.

Thứ tư,đối với hợp đồng tiêu dùng và hợp đồng lao động, mặc dù không giới hạn nguồn luật được lựa chọn phải có sự gắn kết nhất định với tranh chấp hoặc các bên tranh chấp, nhưng với mục tiêu bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và người lao động, nếu hậu quả của việc áp dụng nguồn luật được lựa chọn lại làm mất đi sự bảo hộ đối với người tiêu dùng, người lao động thì sự thỏa thuận sẽ không được công nhận[7].

Những nội dung trên cũng được diễn đạt tương tự cho việc giới hạn quyền chọn luật áp dụng đối với các tranh chấp ngoài hợp đồng như bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, hưởng lợi không có căn cứ pháp luật, trách nhiệm tiền hợp đồng hoặc thực hiện công việc không có uỷ quyền… tại khoản 2 Điều 14 Nghị định Rome II[8].

Tóm lại, pháp luật EU không đặt ra bất kỳ yêu cầu nào về mối liên hệ gắn bó giữa nguồn luật được lựa chọn bởi các bên trong thoả thuận với các yếu tố của tranh chấp. Tuy nhiên, bằng cách đặt ra các giới hạn khác nhau liên quan đến nguồn luật được lựa chọn, chúng ta có thể thấy yêu cầu mang tính gián tiếp đối với một số loại hợp đồng đặc thù như hợp đồng vận chuyển, hợp đồng tiêu dùng và hợp đồng bảo hiểm. Các yêu cầu này được đặt ra nhằm hướng đến việc tăng cường sự can thiệp của nhà nước trong việc bảo vệ lợi ích cho các bên yếu thế[9]. Hoặc yêu cầu về mối liên hệ gắn bó sẽ có khả năng xuất hiện khi áp dụng các điều khoản bắt buộc trong pháp luật của các quốc gia thành viên mà pháp luật của các quốc gia đó lại có yêu cầu bắt buộc về mối liên hệ gắn bó. Như vậy, với những giới hạn của quyền thoả thuận chọn luật giữa các bên nhằm bảo vệ lợi ích công và cả các lợi ích tư (bảo vệ lợi ích của các chủ thể yếu thế), có thể thấy, mối liên hệ gắn bó giữa nguồn luật được lựa chọn với các yếu tố của tranh chấp cũng được xem là một yêu cầu cụ thể để cho một thoả thuận chọn luật được chấp nhận, mặc dù, yêu cầu này chỉ mang tính gián tiếp.

Đối với các quốc gia thành viên EU, quy định tương tự như trên cũng sẽ được tìm thấy trong pháp luật của một số quốc gia nhằm điều chỉnh mối quan hệ trong lĩnh vực TPQT với bên thứ ba, không đến từ các quốc gia thành viên EU như Điều 27 của Đạo luật Xung đột pháp luật Đức (EGBGB)[10], Điều 32 Luật TPQT Estonia[11], khoản 5 Điều 10 BLDS Tây Ban Nha[12]… Tuy nhiên, một số quốc gia thành viên lại có quy định khác, với việc yêu cầu về mối liên hệ gắn bó nhất định với các yếu tố của tranh chấp. Cụ thể, tại khoản 2 Điều 19 Bộ luật TPQT 2004 của Bỉ, điều khoản giải thoát (escape clause) quy định: trong một tranh chấp, nếu nguồn luật được xác định theo pháp luật hiện hành của Bỉ chỉ có sự kết nối rất nhỏ với quốc gia có pháp luật được chỉ định, nhưng lại có sự kết nối chặt chẽ với một quốc gia khác thì pháp luật của quốc gia khác đó sẽ được áp dụng. Tuy nhiên, việc áp dụng quy định trên sẽ được loại trừ trong trường hợp nguồn luật được xác định dựa trên thoả thuận lựa chọn của các bên tranh chấp theo quy định tại khoản 2 của điều khoản này. Như vậy, với cách quy định tại Điều 19, có thể thấy, một cách gián tiếp, pháp luật Bỉ đã đặt ra yêu cầu về sự kết nối của nguồn luật được xác định trong trường hợp có sự thoả thuận giữa các bên là phải có sự kết nối nhất định (dù là nhỏ) với các yếu tố của tranh chấp. Hoặc theo khoản 1 Điều 53 Luật TPQT Estonia quy định, đối với các tranh chấp ngoài hợp đồng, nếu xuất hiện nguồn luật có sự kết nối chặt chẽ hơn so với các nguồn luật được xác định theo đạo luật về TPQT thì nguồn luật có sự kết nối hơn sẽ được áp dụng.

2. Yêu cầu về “mối liên hệ gắn bó” trong thoả thuận chọn luật theo pháp luật Anh và một số quốc gia bị ảnh hưởng từ pháp luật Anh

Theo những án lệ sớm nhất của Anh được công bố[13], sự đồng thuận của các bên về nguồn luật nơi hợp đồng được giao kết bắt đầu được ghi nhận vào khoảng giữa thế kỷ 18. Vào giữa thế kỷ 19, pháp luật của nơi ký kết hợp đồng được tái khẳng định trong sự đồng thuận của các bên nhằm giải quyết các vấn đề của hợp đồng. Tuy nhiên, cũng trong thời gian này, Toà án Anh bắt đầu tìm kiếm những câu trả lời liên quan đến sự thể hiện rõ ràng của một sự thoả thuận hay một sự ngầm định của các bên, với ý định hướng đến một nguồn luật cụ thể nhằm điều chỉnh các quan hệ hợp đồng giữa họ. Vào khoảng những năm 30 của thế kỷ 20, vấn đề thoả thuận chọn luật áp dụng cho quan hệ hợp đồng được chính thức thừa nhận trong pháp luật Anh bằng nguyên tắc pháp lý được ra đời từ án lệ Vita Food Products Inc v Unus Shipping Co Ltd [1939] AC 277[14] (thường được gọi tắt là Nguyên tắc Vita Food).

Vụ việc liên quan đến vận chuyển hàng hoá bằng đường biển từ Newfoundland (Canada) đến New York (Hoa Kỳ). Trong vận đơn được cấp phát tại Newfoundland có quy định rõ ràng về việc áp dụng luật của Anh và một số nội dung để loại trừ nghĩa vụ của bên chuyên chở. Đạo luật về chuyên chở hàng hoá bằng đường biển của Newfoundland và Hoa Kỳ đều quy định một nghĩa vụ tối thiểu dành cho nhà chuyên chở, do đó Toà án đã xác định điều khoản loại trừ trong Vận đơn là không có giá trị. Tuy nhiên, Hội đồng Cơ mật Hoàng gia Anh, dựa trên sự tôn trọng quyền thoả thuận giữa các bên, đã tuyên bố điều khoản loại trừ vẫn có giá trị và luật của Anh sẽ được áp dụng trong vụ việc này, mặc dù sự kết nối giữa yếu tố lãnh thổ của Anh trong quan hệ hợp đồng này là hầu như không có. Cụ thể, các thẩm phán cho rằng, hợp đồng có thể được điều chỉnh bởi nguồn luật do các bên lựa chọn, trừ khi sự lựa chọn đó là không hợp pháp hoặc gian lận và không có lý do để từ chối dựa trên các cơ sở về chính sách công. Điều này có nghĩa là một thoả thuận chọn luật áp dụng của các bên tranh chấp sẽ được pháp luật Anh chấp nhận khi nó thoả mãn được ba điều kiện: hợp pháp, không gian lận và không trái với chính sách công.

Án lệ nói trên đã có ảnh hưởng rất lớn đến quyền thoả thuận chọn luật áp dụng cho hợp đồng tại các nước thuộc Khối Thịnh vượng chung, trong đó có Singapore. Singapore cũng không có bất kỳ quy định nào để từ chối nguồn luật theo sự thoả thuận của các bên nếu nó không có sự gắn bó với tranh chấp[15]. Vào khoảng giữa thế kỷ 20, cũng có một số quan điểm cho rằng, cần tính đến mối quan hệ gắn bó giữa các yếu tố của tranh chấp với yếu tố lãnh thổ của quốc gia có hệ thống pháp luật được lựa chọn vì như thế sẽ tránh được tình trạng các bên lẩn tránh áp dụng pháp luật Singapore. Tuy nhiên quan điểm này đã không được thừa nhận và bị bác bỏ bằng tuyên bố mạnh mẽ của Thẩm phán Toà án Phúc thẩm Singapore trong án lệ Peh Teck Quee v Bayerische Landesbank Girozentrale, [2000] 1 SLR 148 (CA) khi chính thức thừa nhận và xác định lại nội dung của nguyên tắc Vita Food bằng ba điều kiện quan trọng để xác định liệu rằng một thoả thuận chọn luật giữa các bên có có mang tính hợp pháp hay không:

(i). Việc lựa chọn luật đó không nhằm lẩn tránh pháp luật với sự chủ đích của các bên hoặc thậm chí là do yếu tố khách quan;

(ii). Nguồn luật được các bên lựa chọn mang tính hợp pháp và không trái với chính sách công cơ bản của Singapore;

(iii). Việc lựa chọn luật không rơi vào trường hợp có sự gian dối trong thoả thuận.

Việc bác bỏ quan điểm yêu cầu về mối quan hệ gắn bó còn xuất phát từ việc các thẩm phán cho rằng, quyền tự do thoả thuận giữa các bên phải được ưu tiên, chỉ khi nào thoả thuận chọn luật không đáp ứng được ba điều kiện trên thì mới xem xét đến nguồn luật của quốc gia có mối quan hệ gắn bó mật thiết và thật sự với tranh chấp hoặc với các bên trong tranh chấp[16].

Mặc dù vậy, để chứng minh được thoả thuận chọn luật áp dụng giữa các bên trong tranh chấp có rơi vào một trong ba trường hợp trên hay không thì Toà án Anh lẫn Toà án Singapore cũng phải xác định mối quan hệ gắn bó giữa yếu tố lãnh thổ và các yếu tố cụ thể của tranh chấp, đặc biệt là vấn đề lẩn tránh pháp luật hay có sự gian dối trong thoả thuận.

3. Yêu cầu về “mối liên hệ gắn bó” trong thoả thuận chọn luật theo pháp luật Hoa Kỳ

Theo điểm a, Khoản 2 Điều 187 của The Second Restatement of Conflict of Laws 1971[17] và Mục 1.301 Bộ luật Thương mại thống nhất của Hoa Kỳ (UCC) – bản điều chỉnh năm 2001[18], thoả thuận chọn luật áp dụng giữa các bên phải đảm bảo rằng tiểu bang hoặc quốc gia có pháp luật được lựa chọn phải có mối liên hệ thiết yếu với các bên hoặc phải có cơ sở hợp lý cho sự lựa chọn đó. Các mối liên hệ thiết yếu này được thể hiện thông qua các yếu tố gắn kết về địa lý và tình tiết cụ thể của tranh chấp. Điều này có nghĩa rằng, phải tồn tại một mối liên hệ nhất định giữa tiểu bang hoặc quốc gia có pháp luật được lựa chọn với bên hoặc các bên tranh chấp, ví dụ như tiểu bang hay quốc gia có pháp luật được lựa chọn là nơi ký kết hoặc thực hiện hợp đồng, hoặc là nơi cư trú hoặc là nơi các bên có hoạt động thương mại chính… Sự giới hạn này được đặt ra nhằm ngăn chặn các bên trong việc cố tình lẩn tránh pháp luật lẽ ra phải được áp dụng đối với họ. Ví dụ, dựa theo án lệ Countour Design, Inc. v. Chance Mold Steel Co., Ltd., 693 F.3d 102 (1st Cir. 2012), Toà Phúc thẩm Số 01 của Hoa Kỳ đã từ chối thoả thuận chọn luật áp dụng của các bên chỉ vì mối quan hệ gắn bó duy nhất của nguồn luật được các bên thoả thuận với tranh chấp và các bên trong tranh chấp là bản thảo hợp đồng được soạn tại tiểu bang đó.

Lưu ý rằng, các điều khoản trên cũng cho phép các bên được chọn luật của tiểu bang hoặc quốc gia không có mối liên hệ mật thiết, miễn là họ có thể chứng minh được “cơ sở hợp lý khác” của việc lựa chọn như nguồn luật được lựa chọn là nguồn luật quen thuộc đã được các bên tiến hành lựa chọn nhiều lần trong thực tiễn quan hệ giữa các bên. Tuy nhiên, điều này chỉ có thể thực hiện được với một vai trò rất lớn của các thẩm phán trong quá trình giải thích và vận dụng án lệ vào trong các vụ việc khi chúng có tình tiết tương tự.

Thực tiễn pháp luật Hoa Kỳ cho thấy, yêu cầu về mối liên hệ gắn bó trong các vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài không đòi hỏi tính chặt chẽ và mật thiết nhiều bằng các vụ việc nội địa. Điều này xuất phát từ vấn đề tôn trọng quyền tự định đoạt giữa các bên trong tranh chấp, cũng như tiếp nhận cách quy định từ pháp luật EU[19]. Hơn nữa, hiện nay, với xu hướng ngày càng đề cao nguyên tắc tự định đoạt và quyền tự do ý chí của các bên, một số tiểu bang của Hoa Kỳ đã không còn đặt ra yêu cầu về mối liên hệ gắn bó của nguồn luật được lựa chọn với tranh chấp hoặc các bên tranh chấp mà cho phép các bên được quyền tự do lựa chọn luật áp dụng cho quan hệ hợp đồng giữa các bên, điển hình như tiểu bang Oregon và Louisiana. Tuy nhiên, một số tiểu bang, mặc dù cũng quy định theo hướng đó, nhưng lại giới hạn đối với loại vụ việc. Ví dụ, các bên tranh chấp được tự do thoả thuận chọn luật áp dụng miễn là các tranh chấp đó có giá trị dưới 250.000 USD, quy định này được tìm thấy trong pháp luật của tiểu bang California, Illinois và New York, hoặc dưới 1.000.000 USD đối với tiểu bang Texas…[20]

4. Yêu cầu về “mối liên hệ gắn bó” trong thoả thuận chọn luật theo pháp luật một số quốc gia Châu Á

4.1 Theo pháp luật Trung Quốc

Quyền tự do thoả thuận chọn luật áp dụng của các bên trong hợp đồng được pháp luật Trung Quốc ghi nhận cụ thể tại Điều 41 Luật về Xung đột pháp luật năm 2010 (quy định này được kế thừa từ Điều 126 của Luật Hợp đồng năm 1999). Theo đó, nguồn luật theo sự thoả thuận giữa các bên sẽ được ưu tiên áp dụng, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Nếu các bên không có thoả thuận, nguồn luật được áp dụng sẽ là luật nơi cư trú thường xuyên của bên thực hiện nghĩa vụ chính của hợp đồng hoặc nguồn luật khác có sự kết nối chặt chẽ nhất với quan hệ hợp đồng đó. Điều này có nghĩa rằng, không có bất kỳ một yêu cầu cụ thể nào liên quan đến mối quan hệ gắn bó giữa nguồn luật được lựa chọn với tranh chấp hoặc với các bên trong tranh chấp. Tuy nhiên, theo Điều 42 của Đạo luật này, đối với hợp đồng tiêu dùng, thì chỉ cho phép người tiêu dùng chọn luật của một quốc gia cụ thể, là nơi hàng hoá hoặc dịch vụ được cung cấp. Quy định này được đặt ra nhằm hướng đến bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng, được xem là “chủ thể yếu thế” (weakness party) trong quan hệ hợp đồng với bên cung cấp hàng hoá hoặc dịch vụ.

Mặc dù không tìm thấy quy định liên quan đến yêu cầu về mối quan hệ gắn bó, tuy nhiên, căn cứ quy định của các Điều 4, 5 Luật về Xung đột pháp luật năm 2010, nguồn luật theo sự thoả thuận giữa các bên có thể bị từ chối nếu sự thoả thuận đó trái với các điều khoản bắt buộc điều chỉnh về các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, các lợi ích công cộng – xã hội của Trung Quốc. Hơn nữa, mặc dù pháp luật quy định nguồn luật thể hiện sự kết nối gắn bó với hợp đồng chỉ được áp dụng khi các bên không lựa chọn luật áp dụng hoặc sự lựa chọn là vô hiệu. Tuy nhiên, Tòa án Trung Quốc đôi khi bỏ qua điều kiện tiên quyết này để ưu tiên nguồn luật có sự gắn bó hơn. Điển hình như vụ: Global Promotion Business Ltd v. Huahan Jiayi Business & Trade Ltd and YANG Pixiang, mặc dù giữa hai bên đã thoả thuận chọn luật áp dụng nhưng Toà án lại áp dụng nguồn luật có tính gắn bó chặt chẽ nhất với hợp đồng, từ chối áp dụng nguồn luật do các bên thoả thuận; hoặc trong vụ Beijing Xuanlian Food Ltd v. Beijing Branch of China Bank Co., Ltd and Youli Bank Co., Ltd, Toà án lại dùng luật của nơi có sự gắn bó chặt chẽ nhất với hợp đồng để xác định tính hiệu lực của thoả thuận chọn luật áp dụng[21]. Đây có thể xem là trường hợp gián tiếp từ chối áp dụng nguồn luật theo sự thoả thuận để áp dụng nguồn luật thể hiện tính gắn bó nhất đối với quan hệ hợp đồng.

4.2 Theo pháp luật Thái Lan

Theo pháp luật Thái Lan, nguyên tắc tự định đoạt giữa các bên thông qua quyền thoả thuận chọn luật nhằm áp dụng trong các vấn đề liên quan đến nội dung của hợp đồng được xem là nguyên tắc ưu tiên hàng đầu được thừa nhận trong Luật Xung đột Thái Lan ban hành năm 1938. Điều 13 của đạo luật này quy định, câu hỏi về luật áp dụng đối với việc xem xét các yếu tố cơ bản hoặc hiệu lực của hợp đồng sẽ được xác định bởi ý định của các bên có liên quan. Quy định này thể hiện sự tôn trọng quyền tự do giao kết hợp đồng của các bên và nó đã trở thành nguyên tắc phổ biến hiện nay trên thế giới. Mặc dù pháp luật không đặt ra yêu cầu về tính gắn bó của nguồn luật được lựa chọn, nhưng trên thực tế, hệ thống pháp luật được các bên lựa chọn sẽ phải là pháp luật của nước có sự kết nối nhất định với hợp đồng. Nếu không, sẽ khó được Toà án Thái Lan chấp nhận như là có sự lựa chọn mang tính ngầm định hay từ ý định của các bên.

5. Một số kinh nghiệm cho Việt Nam

Quyền thoả thuận chọn luật áp dụng trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài được quy định tại khoản 2 Điều 664 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015: “Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên hoặc luật Việt Nam có quy định các bên có quyền lựa chọn thì pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được xác định theo lựa chọn của các bên”. Quyền thoả thuận này không chỉ được chấp nhận trong lĩnh vực hợp đồng[22], mà còn được mở rộng cho cả các tranh chấp ngoài hợp đồng như thực hiện công việc không có uỷ quyền[23] và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng[24] trên cơ sở tiếp thu những kinh nghiệm lập pháp của Nhật Bản, Thái Lan, Nga và EU[25]. Bên cạnh đó, các nguồn luật chuyên ngành cũng có những quy định nhằm khẳng định quyền thoả thuận chọn luật áp dụng cho các quan hệ đặc thù có yếu tố nước ngoài[26].

Tuy nhiên, trong các văn bản pháp luật kể trên, chỉ tìm thấy được một số ít điều kiện liên quan đến yếu tố chủ thể hoặc phạm vi của sự thoả thuận, còn lại hầu như không tồn tại bất kỳ quy định cụ thể nào khác để điều chỉnh về điều kiện có hiệu lực của thoả thuận, đặc biệt là điều kiện liên quan đến mối liên hệ gắn bó của nguồn luật được lựa chọn với tranh chấp hoặc với các bên trong tranh chấp, trừ các tranh chấp liên quan đến hợp đồng tiêu dùng và hợp đồng lao động. Điều này có nghĩa rằng, các bên hoàn toàn có thể thoả thuận bất kỳ nguồn luật nước nào để điều chỉnh quan hệ hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng, kể cả nguồn luật của quốc gia không có bất kỳ mối liên hệ cụ thể với hợp đồng hoặc quan hệ ngoài hợp đồng có tranh chấp. Điều này có thể gây ra những hiện tượng mang tính tiêu cực trong quá trình giải quyết tranh chấp như vấn đề lẩn tránh pháp luật hoặc nguồn luật theo sự thoả thuận mang tính áp đặt từ phía đối tác nước ngoài và phía Việt Nam buộc phải chấp nhận vì mong muốn hợp đồng được ký kết một cách nhanh chóng…

Nghiên cứu pháp luật các nước về vấn đề này cho thấy, mặc dù có những cách thức khác nhau trong việc quy định về mối liên hệ gắn bó giữa nguồn luật được lựa chọn với tranh chấp hoặc các bên trong tranh chấp, nhưng xét cho cùng đều hướng đến việc ràng buộc điều kiện này theo hai cách thức trực tiếp hoặc gián tiếp. Cách thức quy địnhtrực tiếp có thể tìm thấy trong các án lệ của Hoa Kỳ, Thái Lan hoặc gián tiếp như EU cùng các nước thành viên như Bỉ, Đức, Estonia, Tây Ban Nha hoặc Singapore, Trung Quốc… Cách thức quy định trực tiếp mang tính rõ ràng, thông qua sự ràng buộc bằng các quy định của pháp luật và án lệ. Còn đối với cách quy định gián tiếp, các quốc gia thường thực hiện cách thức này thông qua việc quy định về sự tuân thủ bắt buộc các điều khoản bắt buộc (mandatory provisions hoặc mandatory rules) trong luật quốc nội, cụ thể như Điều 9 của Nghị định Rome I, Điều 16 Nghị định Rome II, khoản 3 Điều 32 Luật TPQT Estonia, Điều 20 Bộ luật TPQT Bỉ, Điều 4 Luật Xung đột pháp luật Trung Quốc…[27] Điều này xuất phát từ quan điểm cho rằng, nếu quyền thoả thuận chọn luật của các bên được tôn trọng tuyệt đối thì những giá trị mà các điều khoản bắt buộc được quốc gia quy định sẽ không thể phát huy được mục đích của mình. Lưu ý rằng, các điều khoản bắt buộc là các điều khoản có liên quan mật thiết đến các lợi ích công cộng, về vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội gắn với yếu tố chủ quyền quốc gia và mang tính hướng nội, được áp dụng theo chiều hướng tích cực để bảo vệ các giá trị công bằng, đạo đức và trật tự công cộng, bảo vệ lợi ích nhà nước đồng thời cũng bảo vệ các lợi ích tư trong xã hội. Để xác định nội dung này, Toà án thường phải xem xét đến ý định và mục đích của những giá trị mà nhà nước muốn bảo vệ trong các đạo luật[28].

Pháp luật Việt Nam hầu như không điều chỉnh về vấn đề này mà chỉ đề cập đến “các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”. Cụ thể, theo quy định của điểm a, khoản 1 Điều 670 BLDS năm 2015, nếu hậu quả của việc áp dụng pháp luật nước ngoài được các bên lựa chọn trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam thì pháp luật nước ngoài đó sẽ không được áp dụng. Vậy có thể dùng điều khoản này với nội hàm tương tự như các điều khoản bắt buộc hay không? Cho đến thời điểm hiện nay, chỉ duy nhất Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP của Hội đồng thm phán Tòa án nhân dân tối cao về Hướng dẫn thi hành một số quy định Luật Trọng tài thương mại có đề cập đến “các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”. Tuy nhiên, Nghị quyết này vẫn chưa làm rõ nội hàm của “các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”. Bên cạnh đó, Nghị quyết 01 chỉ có giá trị áp dụng cho việc giải quyết các vấn đề liên quan đến giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, không có giá trị chung cho việc giải quyết các tranh chấp khác và thực tiễn xét xử của Toà án cũng chưa từng nhắc đến việc áp dụng tương tự pháp luật cho trường hợp này. Ở đây cũng lưu ý rằng, nội dung của các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam hay trật tự công (public order), chính sách công (public policy) là khái niệm liên quan đến chính sách quốc gia, mang tính hướng ngoại, được áp dụng với chiều hướng nhằm hạn chế áp dụng pháp luật nước ngoài[29]. Nếu xét về trình tự xác định tính hợp pháp của luật nước ngoài được lựa chọn thì việc xem xét thoả thuận có vi phạm các điều khoản bắt buộc hay không sẽ được các thẩm phán xác định trước tiên, nếu không, các thẩm phán mới dựa trên các yếu tố liên quan đến chính sách công (trật tự công) để xác định. Do đó, không thể sử dụng điểm a, khoản 1 Điều 670 BLDS năm 2015 với ý nghĩa bao trùm cho khái niệm các điều khoản bắt buộc.

Bên cạnh đó, mặc dù, xu thế chung của các nước đang hướng đến vấn đề mở rộng tối đa quyền tự do ý chí của các bên[30], nhưng điều đó hoàn toàn không phù hợp trong bối cảnh Việt Nam hiện nay. Việc thừa nhận sự ràng buộc về mối liên hệ gắn bó giữa các yếu tố của tranh chấp với pháp luật nước ngoài được các bên lựa chọn được cho là cần thiết dựa trên một số cơ sở sau:

Vị trí yếu thế cũng như trình độ hạn chế của cá nhân, cơ quan, tổ chức Việt Nam khi tham gia các giao dịch với đối tác nước ngoài: Khi tham gia vào các giao dịch có yếu tố nước ngoài, các cá nhân, cơ quan, tổ chức của Việt Nam thường ở vị trí yếu thế, cơ hội để đàm phán mang tính bình đẳng với các đối tác nước ngoài rất hiếm, mặc dù về nguyên tắc, các bên đều bình đẳng với nhau trong việc thiết lập hợp đồng. Điều này xuất phát từ áp lực để ký được hợp đồng, các đối tác Việt Nam đôi khi phải chấp nhận nguồn luật theo yêu cầu từ phía nước ngoài, mà nguồn luật này thường là nguồn luật quen thuộc đối với họ, hướng đến bảo vệ quyền và lợi ích của họ nhiều nhất, thậm chí có thể không có bất kỳ sự kết nối nào với yếu tố lãnh thổ của quốc gia có pháp luật được lựa chọn. Đây là một thực tế khá phổ biến từ trước đến nay ở Việt Nam, đặc biệt thường xảy ra trong hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế, vận tải hàng hóa quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam. Do đó, việc quy định về mối liên hệ gắn bó này, ở một mức độ nào đó, pháp luật Việt Nam sẽ phát huy được vai trò bảo vệ cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức Việt Nam khi thực hiện các giao dịch với đối tác nước ngoài.

Trình độ của đội ngũ giải quyết tranh chấp hiện nay còn những hạn chế nhất định, đặc biệt về khả năng ngoại ngữ, để có thể hiểu và áp dụng pháp luật nước ngoài theo sự thoả thuận giữa các bên. Thực tiễn pháp lý Việt Nam trong thời gian qua cho thấy, hầu như rất hiếm trường hợp pháp luật nước ngoài được áp dụng. Tòa án Việt Nam chỉ áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết tranh chấp mà không viện dẫn lý do tại sao lại áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết các tranh chấp đó[31]. Hơn nữa, mặc dù theo quy định tại khoản 1 Điều 481 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 có quy định về nghĩa vụ của các bên trong trường hợp có thoả thuận chọn luật, nhưng nghĩa vụ đó chỉ liên quan đến việc cung cấp pháp luật nước ngoài, còn việc hiểu và giải thích nội dung pháp luật nước ngoài lại thuộc về thẩm phán, dựa trên các nguyên tắc được quy định từ Điều 664 – 670 BLDS năm 2015. Điều này có thể dẫn đến sự lúng túng trong việc tiếp cận xác định nội dung của pháp luật nước ngoài làm cơ sở giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài. Chính những yếu tố này có thể khiến cho quy định tưởng chừng như rất cởi mở trong việc tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên tranh chấp lại không được thực thi trên thực tế.

Hạn chế được vấn đề lẩn tránh pháp luật: Điều này có thể xảy ra khi các bên cố tình lẩn tránh pháp luật Việt Nam, lựa chọn pháp luật nước ngoài nhằm trốn tránh một nghĩa vụ nào đó. Bởi lẽ, có những trường hợp, nếu các bên không có thoả thuận chọn luật thì pháp luật Việt Nam sẽ phải được áp dụng và khi đó, có thể sẽ làm phát sinh nghĩa vụ của một trong hai bên tranh chấp hoặc cả hai bên tranh chấp với Nhà nước Việt Nam hoặc với bên thứ ba có quyền và lợi ích hợp pháp.

Từ những phân tích trên, chúng tôi cho rằng, việc ràng buộc về mối liên hệ gắn bó (dù là nhỏ) giữa nguồn luật được lựa chọn với tranh chấp hoặc các bên trong tranh chấp là điều cần thiết cho Việt Nam hiện nay. Sự ràng buộc này sẽ được thực hiện thông qua việc tuyên bố các thoả thuận chọn luật phải đảm bảo không được trái với các nguyên tắc cơ bản trong pháp luật Việt Nam và đặc biệt là các điều khoản bắt buộc theo pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, trong bối cảnh BLDS năm 2015 vừa mới được triển khai thi hành, việc sửa đổi là điều bất khả thi ngay tại thời điểm này, do đó, vấn đề yêu cầu về mối liên hệ gắn bó nên được trao cho Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao trong việc đưa ra ý kiến hướng dẫn cho Toà án các cấp.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Minh Ngọc và một số tác giả (2015), Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài trong điều kiện sửa đổi BLDS, Đề tài nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Luật Hà Nội.

2. Felix Maultzsch, Party Autonomy in European Private International Law: Uniform Principle or Context-Dependent Instrument? – “Parteiautonomie im Internationalen Privat- und Zivilverfahrensrecht” (bằng tiếng Đức) trong tài liệu: J v Hein & G Rühl, Kohärenz im Europäischen Internationalen Privat- und Ver-fahrensrecht, Nxb Tübingen, Mohr Siebeck, Đức, năm 2015.

3. Jürgen Basedow, Exclusive Choice-of-Court Agreements as a Derogation from Imperative Norms, Tạp chí Max Planck Private Law Research Paper, năm 2013, số 14 (1).

4. Michael Bogdan, Concise Introduction to Eu Private International Law, Nxb. Europa Law Publishing, Đức, năm 2006.

5. Bùi Thị Thu, Thống nhất hóa nguyên tắc chọn luật áp dụng điều chỉnh hợp đồng theo Quy tắc Rome I, hướng hoàn thiện cho pháp luật Việt Nam, Tạp chí Luật học, số 10, năm 2013.

6. Bành Quốc Tuấn, Thoả thuận chọn luật áp dụng cho quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài trong pháp luật quốc tế và Việt Nam, Tạp chí Luật học, Số 01, năm 2017.

7. George A. Zaphiriou, Choice of Forum and Choice of Law Clauses in International Commercial Agreements, Tạp chí Maryland Journal of International Law, Số 3 (2), năm 1978.

8. Yeo Tiong Min, Choice of Law Agreements, Tạp chí Singapore Academy of Law Journal, số 20, năm 2008.

9. Lê Thị Nam Giang & Trần Ngọc Hà, Từ kinh nghiệm của pháp luật các nước, kiến nghị sửa đổi Điều 769 BLDS năm 2005, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 01, năm 2014, tr. 55.

10. Ruhl, Giesela, Party Autonomy in the Private International Law of Contracts: Transatlantic Convergence and Economic Effiency, Tạp chí Comparative Research in Law & Political Economy, Canada, số 4, năm 2007.

Nguồn: http://digitalcommons.osgoode.yorku.ca/clpe/227(truy cập ngày 18/3/2017).

11. Shuhong Yu, Yongping Xiao & Baoshi Wang, The Closest Connection Doctrine in the Conflict of Laws in China, Tạp chí Chinese Journal of International Law, Anh, số 8 (2), năm 2009.

12. Prasit Pivavatnapanich, Choice of Law in Contract and Thai Private International Law: A Comparative Study, Tạp chí Law Journal of Thailand Bar Society, số 7 (1), năm 2004.

13. Symeon C. Symeonides, Codifying Choice of Law Around the World – An International Comparative Analysis, Nxb. Oxford Unviersity Press, Anh, năm 2014, tr. 148, 158.

14. Nygh, Peter, Autonomy in International Contracts, Nxb. Oxford University Press, Anh, năm 1999, tr. 29.

15. Franco Ferrari & Stefan Leibe (eds), Rome I Regulation – The Law Applicable to Contractual Obligations in Europe, Nxb. European Law Publishers, năm 2009, tr. 297, 298.

16. Nguyễn Khánh Ngọc và một số tác giả, Báo cáo tóm tắt đề tài: Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Luật TPQT, Đề tài Nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Bộ Tư pháp, năm 2015.


CHÚ THÍCH

[1] Felix Maultzsch, Party Autonomy in European Private International Law: Uniform Principle or Context-Dependent Instrument? – “Parteiautonomie im Internationalen Privat- und Zivilverfahrensrecht” (bằng tiếng Đức) trong tài liệu: J v Hein & G Rühl, Kohärenz im Europäischen Internationalen Privat- und Ver-fahrensrecht,Nxb Tübingen, Mohr Siebeck, Đức, năm 2015 tr.1-2.

[2] Jürgen Basedow, Exclusive Choice-of-Court Agreements as a Derogation from Imperative Norms, Tạp chí Max Planck Private Law Research Paper, năm 2013, số 14 (1), tr. 17.

[3] Nghị định 593/2008 của EU về luật áp dụng cho nghĩa vụ hợp đồng.

[4] Michael Bogdan, Concise Introduction to Eu Private International Law, Nxb. Europa Law Publishing, Đức, năm 2006, tr. 122.

[5] Bùi Thị Thu, Thống nhất hóa nguyên tắc chọn luật áp dụng điều chỉnh hợp đồng theo Quy tắc Rome I, hướng hoàn thiện cho pháp luật Việt Nam, Tạp chí Luật học, số 10, năm 2013, tr. 48.

[6] Theo Điều 5 và Điều 7 Nghị định Rome I.

[7] Theo Điều 6 và Điều 8 Nghị định Rome I.

[8] Nghị định 864/2007 của EU về luật áp dụng đối với nghĩa vụ ngoài hợp đồng.

[9] Bành Quốc Tuấn, Thoả thuận chọn luật áp dụng cho quan hệ hợp đổng có yếu tố nước ngoài trong pháp luật quốc tế và Việt Nam, Tạp chí Luật học, Số 01, năm 2017, tr. 74.

[10] Các nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật được quy định từ Điều 3 đến Điều 46 của the Einführungsgesetz zum Bürgerlichen Gesetzbuche (EGBGB – Civil Code (Introduction) Act, tạm dịch là Đạo luật Xung đột pháp luật của Đức), được ban hành năm 1994, sửa đổi bổ sung lần gần nhất 2015. Nguồn: website Bộ Tư pháp và Bảo vệ Người tiêu dùng của Đức http://www.gesetze-im-internet.de/englisch_bgbeg/englisch_bgbeg.html#p0008 (truy cập ngày 18/3/2017); Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 2015, các quy định về giải quyết xung đột pháp luật liên quan đến nghĩa vụ hợp đồng từ điều 27 – 37 của Đạo luật này đã bị huỷ bỏ. Thay vào đó, sẽ áp dụng trực tiếp các quy định của Nghị định Rome I. Xem thêm: Applicable law – Germany tại website:

http://ec.europa.eu/civiljustice/applicable_law/applicable_law_ger_en.htm (truy cập ngày 02/11/2016).

[11] Luật TPQT Estonia ban hành năm 2002, sửa đổi bổ sung năm 2004, 2009, 2016.

[12] Được ban hành năm 1889, sửa đổi bổ sung lần gần nhất vào năm 2011.

[13] Mặc dù Anh là thành viên EU nhưng các nguyên tắc nằm trong Nghị định Rome I và Rom II chỉ có giá trị ràng buộc khi tranh chấp dân sự, thương mại có yếu tố nước phát sinh giữa các chủ thể Anh với các chủ thể đến từ các quốc gia thành viên EU khác. Còn lại, Anh vẫn có các nguyên tắc TPQT riêng để điều chỉnh quan hệ phát sinh với các chủ thể đến từ các quốc gia không phải là thành viên EU. Đặc biệt, với việc rút khỏi EU trong tương lai, các nguyên tắc này có thể trở thành các nguyên tắc chung cho TPQT của Anh.

[14] Xem: George A. Zaphiriou, Choice of Forum and Choice of Law Clauses in International Commercial Agreements, Tạp chí Maryland Journal of International Law, số 3 (2), năm 1978, tr. 312.

[15] Nguồn: http://www.singaporelaw.sg/sglaw/laws-of-singapore/overview/chapter-6 (truy cập ngày 02/5/2016).

[16] Yeo Tiong Min, Choice of Law Agreements, Tạp chí Singapore Academy of Law Journal, số 20, năm 2008, tr.726.

[17] Trong khoa học pháp lý Hoa Kỳ, Restatement of Law là tập hợp các chuyên luận về các vấn đề pháp lý nhằm mục đích thông báo cho thẩm phán cũng như các luật sư về các nguyên tắc chung của hệ thống án lệ. Các tuyển tập này chủ yếu là tập hợp những học thuyết pháp lý phổ biến đã được áp dụng qua thời gian tại các tòa án Hoa Kỳ. Restatement không có giá trị ràng buộc các bang phải tuân thủ, tuy nhiên những học thuyết được trình bày mang tính thuyết phục cao vì được xây dựng bởi kinh nghiệm của các giáo sư, luật sư và thẩm phán, do đó được sử dụng rộng rãi và bao phủ gần hết các lĩnh vực của Common Law. Trong lĩnh vực xung đột pháp luật, Hoa Kỳ đã công bố hai phiên bản Restatement: The First Restatement of Conflict of Laws được công bố vào năm 1934; The Second Restatement of Conflict of Laws được công bố năm 1971. Xem thêm: Lê Thị Nam Giang & Trần Ngọc Hà, Từ kinh nghiệm của pháp luật các nước, kiến nghị sửa đổi Điều 769 BLDS năm 2005, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 01, năm 2014, tr. 55.

[18] Nguồn: https://www.law.cornell.edu/ucc/1/1-301 (truy cập ngày 07/11/2016).

[19] Ruhl, Giesela, Party Autonomy in the Private International Law of Contracts: Transatlantic Convergence and Economic Effiency,Tạp chí Comparative Research in Law & Political Economy, Canada, số 4 năm 2007, tr. 14-15. Nguồn: http://digitalcommons.osgoode.yorku.ca/clpe/227 (truy cập ngày 18/3/2017).

[20] Điều 3540 BLDS Louisiana, mục 120 Section 81 Revised Statutes của tiểu bang Oregon. Xem thêm: Ruhl, Giesela (2007), tlđd.

[21] Shuhong Yu, Yongping Xiao & Baoshi Wang, The Closest Connection Doctrine in the Conflict of Laws in China, Tạp chí Chinese Journal of International Law, Anh,số 8 (2), năm 2009, tr.423-439.

Nguồn: https://academic.oup.com/chinesejil/article-lookup/doi/10.1093/chinesejil/jmp018 (truy cập ngày 19/3/2017).

[22] Khoản 1 Điều 683 BLDS 2015 quy định: “Các bên trong quan hệ hợp đồng được thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng đối với hợp đồng, trừ trường hợp quy định tại các khoản 4, 5 và 6 Điều này…”

[23] Điều 686 BLDS 2015 quy định: “Các bên được thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng cho việc thực hiện công việc không có ủy quyền…”

[24] Khoản 1 Điều 687 BLDS 2015 quy định: “Các bên được thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng cho việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng…”

[25] Bộ Tư pháp (2015), “Bản Thuyết minh Dự thảo BLDS (sửa đổi)”, tr. 84.

[26] Điều 5 Luật Thương mại 2005 quy định quyền chọn luật của các bên trong giao dịch thương mại có yếu tố nước ngoài; Khoản 4 Điều 4 Luật Đầu tư 2014 cho phép các bên chọn luật áp dụng đối với các vấn đề hợp đồng trong đó có ít nhất một bên tham gia là nhà đầu tư nước ngoài hoặc tổ chức kinh tế quy định tại khoản 1 Điều 23 của Luật này; Khoản 2 Điều 4 Bộ luật Hàng hải 2005 cho phép các bên trong hợp đồng liên quan đến hoạt động hàng hải được quyền lựa chọn luật áp dụng; Khoản 3 Điều 4 Luật Chuyển giao Công nghệ năm 2006 cho phép các bên được quyền thoả thuận chọn luật trong phạm vi hợp đồng chuyển giao công nghệ có yếu tố nước ngoài…

[27] Theo tính toán của Giáo sư Symeon C. Symeonides, hiện nay, nếu tính luôn EU và các quốc gia thành viên, có 52/94 quốc gia có quy định về sự ràng buộc bởi các điều khoản bắt buộc. Xem: Symeon C. Symeonides, Codifying Choice of Law Around the World – An International Comparative Analysis, Nxb. Oxford Unviersity Press, Anh, năm 2014, tr.148, 158.

[28] Nygh, Peter, Autonomy in International Contracts, Nxb. Oxford University Press, Anh, năm 1999, tr.29.

[29] Franco Ferrari & Stefan Leibe (eds), Rome I Regulation – The Law Applicable to Contractual Obligations in Europe, Nxb. European Law Publishers, năm 2009, tr. 297, 298.

[30] Theo tính toán của Giáo sư Symeon C. Symeonides, hiện nay, ngoài EU và các quốc gia thành viên, có khoảng trên 40 quốc gia không quy định trực tiếp về yêu cầu mối liên hệ gắn bó giữa nguồn luật được lựa chọn với các yếu tố liên quan đến tranh chấp. Xem: Symeon C. Symeonides (2014), tlđd, tr. 120.

[31] Nguyễn Khánh Ngọc và một số tác giả, Báo cáo tóm tắt đề tài: Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Luật TPQT, Đề tài Nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Bộ Tư pháp, năm 2015, tr. 19.

SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆN TỬ

<

p align=”justify”>Trích dẫn từ: http://www.nclp.org.vn/kinh_nghiem_quoc_te/yeu-cau-ve-moi-lien-he-gan-bo-trong-thoa-thuan-chon-luat-theo-phap-luat-mot-so-nuoc-va-nhung-noi-dung-co-the-tham-khao

1900.0191