HỆ THỐNG ÁN LỆ CỦA CỘNG HÒA PHÁP
TRẦN ĐỨC SƠN – Nhà Pháp luật Việt – Pháp
Án lệ thường được tiếp cận dưới góc độ xác định nguồn luật trong hệ thống pháp luật quốc gia và quốc tế. Xét dưới góc độ này, hệ thống án lệ của Cộng hoà Pháp có những đặc điểm đáng chú ý cho thấy có sự kết hợp giữa hai thái cực xuất phát từ hai trường phái pháp luật cổ điển: Trường phái luật Anh – Mỹ (Case Law) coi án lệ là nguồn chủ yếu của pháp luật và trường phái luật thành văn (Civil Law) không công nhận hoặc công nhận hạn chế án lệ là nguồn luật. Pháp luật Pháp không tuyệt đối hoá vai trò là nguồn luật của án lệ nhưng cũng không phủ nhận hoàn toàn vai trò này. Án lệ của Cộng hoà Pháp không đương nhiên được thừa nhận là nguồn của pháp luật, muốn trở thành nguồn luật, nó phải đáp ứng một số điều kiện về hình thức và nội dung.
Tuy nhiên, ngay cả trong trường hợp này, án lệ cũng không phải là một nguồn luật đầy đủ như các nguồn luật chính thống. Theo ý kiến của một số nhà nghiên cứu, án lệ của Cộng hoà Pháp không phải là một nguồn luật chính thức nhưng tồn tại như một thực tế khách quan. Nó không có hiệu lực cưỡng chế mang tính pháp lý như các nguồn luật chính thống, nhưng lại có hiệu lực ràng buộc mang tính tâm lý đối với các cơ quan áp dụng pháp luật đặc biệt là Thẩm phán (khi xét xử một vụ việc, Thẩm phán thường có xu hướng lựa chọn cách giải quyết đã từng áp dụng cho các vụ việc tương tự trước đây) và cũng là nguồn hình thành các quy tắc ứng xử trong xã hội. Nhìn chung, hiện nay giới luật gia của Pháp vẫn chưa có một quan điểm thống nhất về quy chế nguồn luật của án lệ. Điều này xuất phát từ hai lý do. Thứ nhất, khái niệm án lệ (Jurisprudence) được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Mỗi người đều xuất phát từ cách hiểu riêng của mình về khái niệm này khi tiếp cận vấn đề quy chế nguồn luật của án lệ. Thứ hai, các văn bản pháp luật chính thức của Cộng hoà Pháp không xác định một cách rõ ràng việc án lệ có phải là một nguồn luật hay không. Hiến pháp năm 1958 không có một quy định nào về vấn đề này. Bộ luật Dân sự 1804 có những điều khoản có vẻ như công nhận quy chế nguồn luật của án lệ (Điều 4), nhưng lại có những điều khoản quy định theo hướng phủ nhận quy chế này (Điều 5 và Điều 1351).
Án lệ của Cộng hoà Pháp là một hiện tượng khá phức tạp. Để có một cái nhìn tương đối tổng quan về hệ thống án lệ này, cần phải làm rõ những vấn đề sau: Khái niệm án lệ; quy chế nguồn luật của án lệ; hiệu lực áp dụng của án lệ.
I. Nhận thức chung về án lệ
1. Khái niệm án lệ
Về cơ bản, các cơ quan tài phán của Cộng hoà Pháp được chia thành ba hệ thống tách biệt nhau: Hệ thống tài phán hiến pháp có thẩm quyền xét xử các văn bản pháp luật do Quốc hội ban hành, đảm bảo sự hợp hiến của các văn bản này; hệ thống tài phán hành chính xét xử văn bản hành chính, hành vi hành chính của các cơ quan hành chính từ trung ương tới địa phương; đảm bảo nội dung các văn bản này phù hợp với luật do Quốc hội ban hành và giải quyết tranh chấp giữa cơ quan hành chính với tổ chức, cá nhân; hệ thống tài phán tư pháp giải quyết các vụ việc trong lĩnh vực dân sự (theo nghĩa rộng, bao gồm dân sự kinh tế, thương mại, lao động, hôn nhân, gia đình…) và các vụ án hình sự. Tương ứng với ba hệ thống tài phán này có ba loại án lệ khác nhau, tạm gọi là án lệ hiến pháp, án lệ hành chính và án lệ tư pháp. Như vậy, trước tiên cần phải có sự phân biệt giữa ba loại án lệ trên, bởi lẽ mỗi loại đều có những đặc điểm khác nhau và quy chế nguồn luật của chúng cũng không giống nhau.
Án lệ hiến pháp là một lĩnh vực tương đối đặc thù, Án lệ hành chính là nguồn chủ yếu của luật hành chính của Cộng hoà Pháp. Hầu hết các chế định quan trọng của pháp luật hành chính của Cộng hoà Pháp đều tồn tại dưới dạng án lệ do Tòa án hành chính tối cao ban hành. Án lệ này có hiệu lực áp dụng bắt buộc đối với các cơ quan Nhà nước và các Toà hành chính cấp dưới. Trái lại, án lệ tư pháp là một hiện tượng phức tạp hơn. Cuộc tranh luận về qui chế nguồn luật của án lệ chủ yếu tập trung vào loại án lệ tư pháp. Do vậy, những vấn đề trình bày dưới đây đều liên quan đến loại án lệ này.
Trong lĩnh vực án lệ tư pháp, khái niệm án lệ được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Theo nghĩa rộng, án lệ bao gồm tất cả các bản án, quyết định của Toà án được tuyên trên toàn lãnh thổ nước Pháp. Theo nghĩa hẹp, án lệ chỉ quan điểm, cách thức Toà án giải thích và áp dụng pháp luật cho những vấn đề pháp lý lặp đi lặp lại trong nhiều vụ việc tương tự. Vấn đề quy chế nguồn luật của án lệ đặt ra chính là ở điểm này. Trong khái niệm án lệ nói chung còn cần phải phân biệt giữa hai loại án lệ có quy chế khác nhau, đó là án lệ của Toà án tối cao (Toà phá án) và án lệ của các Toà sơ thẩm và phúc thẩm. Án lệ của Toà án tối cao được công nhận chính thức và có hiệu lực gần như luật. Các nhà nghiên cứu còn sử dụng cụm từ "án lệ lập pháp"’ để chỉ loại án lệ của Toà án tối cao. Trong khi đó án lệ của các Toà án cấp dưới chỉ có giá trị tham khảo.
Ngoài ra, khái niệm án lệ cũng cần phải được làm rõ một số nội dung sau:
Thứ nhất, trong phạm vi nội dung của một bản án, nói đến án lệ là người ta muốn nói đến cách thức chung, quan điểm chung được các Toà án áp dụng trong việc giải quyết những vấn đề pháp luật lặp đi, lặp lại trong nhiều vụ án. Như vậy, trong nội dung một bản án, chỉ những khía cạnh mang tính giải thích, áp dụng pháp luật mới có giá trị án lệ còn những vấn đề thuộc về tình tiết vụ việc, thì dù có lặp đi lặp lại trong nhiều vụ án cũng không có giá trị án lệ. Chúng chỉ có tính chất là một thực tiễn xét xử chung của các Toà án. Ví dụ trong vấn đề bồi thường thiệt hại, rất nhiều vụ án có mức thiệt hại giống nhau, từ đó Toà án có thể áp dụng mức bồi thường giống nhau. Sự lặp đi, lặp lại này hoàn toàn không có giá trị án lệ. Việc các Toà án áp dụng mức bồi thường giống nhau cho các vụ án có mức độ thiệt hại giống nhau không có nghĩa là giữa các Toà án đó đã hình thành một án lệ chung trong việc giải quyết các vụ án về bồi thường thiệt hại.
Thứ hai, không phải mọi bản án, quyết định của Toà án đều có giá trị án lệ, bởi trên thực tế có nhiều bản án chỉ có giá trị cho một vụ việc cụ thể. Các bản án này chỉ tập trung giải quyết các tình tiết cụ thể của vụ án, không có những vấn đề vướng mắc về giải thích và áp dụng pháp luật. Bên cạnh đó, cũng có nhiều bản án ngoài việc giải quyết những tình tiết cụ thể của vụ án, còn đặt ra và giải quyết những vấn đề về giải thích và áp dụng pháp luật từ đó có thể rút ra được một nguyên tắc chung để áp dụng cho các vụ án khác.
Ví dụ nguyên tắc hoàn trả tài sản trong trường hợp được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật là một nguyên tắc hình thành từ án lệ trên cơ sở Toà án giải thích và áp dụng Điều 1371, Bộ luật Dân sự 1804. Hiện nay, không có một quy định pháp luật thành văn nào đề cập đến nguyên tắc này, nhưng nó đã trở thành nguyên tắc chung được các Toà án áp dụng trong việc giải quyết các vụ việc tương tự, từ đó hình thành nên án lệ.
Thứ ba, khi nói đến sự hình thành của một án lệ tức là nói đến sự lặp đi, lặp lại của một giải pháp được Toà án áp dụng cho các vụ việc tương tự. Điều này có nghĩa là để hình thành án lệ về một vấn đề pháp lý nào đó, phải có một số lượng nhất định các bản án, quyết định của Toà án được tuyên theo cùng một hướng đối với các vụ việc tương tự. Cứ xảy ra một vụ việc tương tự, thì Toà án sẽ áp dụng cách giải quyết như các Toà án trước đã làm.
Tuy nhiên cũng có những trường hợp chỉ cần một vụ việc, với một bản án hay quyết định của Toà án đã đủ để hình thành một án lệ về vấn đề pháp luật đó. Trường hợp này là rất hiếm, nó đòi hỏi bản án phải có nội dung giải thích và áp dụng pháp luật gần như hoàn hảo, phản ánh đúng vấn đề pháp lý đặt ra cần giải quyết và đưa ra một giải pháp phù hợp với yêu cầu của thực tế.
Tóm lại, án lệ là một khái niệm bao hàm trong nó những thực tế rất đa dạng. Khó khăn trong việc xác định quy chế nguồn luật của án lệ trong hệ thống pháp luật của Cộng hoà Pháp xuất phát từ chính sự đa dạng này. Mỗi người đều xuất phát từ những khía cạnh khác nhau của khái niệm án lệ để khẳng định nó có phải là người luật hay không phải là một nguồn luật.
2. Cơ chế hình thành án lệ
Về nguyên tắc, mỗi bản án là một quyết định cá biệt chỉ có hiệu lực áp dụng đối với vụ việc mà nó giải quyết chứ không có hiệu lực áp dụng chung đối với các vụ việc khác, Vậy cơ chế nào cho phép chuyển cái cá biệt của bản án thành cái bao quát của án lệ có giá trị áp dụng chung cho nhiều vụ việc? Theo một sơ đồ giản lược nhất, để hình thành án lệ, trước tiên phải có bản án. Bản án chính là chất liệu đầu tiên hình thành nên án lệ. Nội dung của bản án thường bao gồm hai phần: Phần nội dung của vụ việc và phần quyết định của Toà án. Trong các phần trên, phần nhận định của Toà án chính là phần có giá trị nhất trong việc hình thành án lệ. Trong phần nhận định này, Thẩm phán thể hiện quan điểm của mình về hướng giải quyết vụ việc cũng như về những vấn đề pháp lý đặt ra trong vụ việc. Tiến trình suy luận lô gíc của Thẩm phán trong nội dung của bản án được thực hiện theo thuyết tam đoạn luận. Mệnh đề chính thể hiện quan điểm của Thẩm phán trong việc lựa chọn và giải thích nội dung các qui định pháp luật áp dụng cho vụ việc. Mệnh đề phụ thể hiện nội dung vụ việc và phần kết luận thể hiện quyết định của Thẩm phán đối với vụ việc. Trong ba phần trên, thì mệnh đề phụ và phần kết luận chỉ có giá trị đối với vụ việc cụ thể đó. Trái lại, mệnh đề chính mang tính bao quát hơn, có thể rút ra từ đó một nguyên tắc chung áp dụng cho các vụ việc khác tương tự. Như vậy, trong nội dung của một bản án, phần nhận định của Toà án chính là phần quan trọng nhất đối với việc hình thành án lệ, bởi chính trong phần nhận định này, Thẩm phán sẽ thể hiện quan điểm của mình đối với vấn đề pháp lý cần giải quyết và nếu quan điểm này phù hợp với yêu cầu của thực tế và phù hợp với trật tự pháp lý thì sẽ có xu hướng trở thành một qui phạm án lệ có khả năng áp dụng cho các vụ việc tương tự.
Chất liệu đầu tiên để hình thành nên án lệ chính là bản án, trong đó phần nhận định của Thẩm phán là phần quan trọng nhất. Tuy nhiên, để trở thành án lệ, quan điểm nhận định này phải trở thành quan điểm chung của các Toà án khi giải quyết các vụ việc tương tự. Như vậy, ở đây xuất hiện một yếu tố thứ hai tham gia vào quá trình hình thành án lệ, đó là yếu tố tiền lệ. Nói cách khác, để có án lệ thì phải có tiền lệ, tức là trước đó đã từng có nhiều bản án đưa ra cách giải quyết tương tự, rồi dần dần hình thành nên một tiền lệ trong việc giải quyết các trường hợp đó. Theo nguyên tắc độc lập xét xử, Thẩm phán có toàn quyền trong việc giải quyết vụ việc theo cách riêng của mình, không lệ thuộc vào quan điểm của các Thẩm phán khác. Ngay chính một Thẩm phán cũng có thể xét xư theo những cách khác nhau đối với các vụ việc tương tự như nhau.
Tuy nhiên, trên thưc tế, do sự tác động của yếu tố tâm lý, Thẩm phán thường có xu hướng lựa chọn cách giải quyết đã từng được áp dụng trước đây cho các vụ việc tương tự, nếu như giải pháp này đã được chấp nhận rộng rãi và có tính chất như một qui phạm được các Thẩm phán khác tuân theo. Điều này vừa đảm bảo được tính liên tục trong quan điểm xét xử của Toà án, vừa tránh cho Thẩm phán phải đưa ra một cách giải quyết mới chưa chắc đã phù hợp với yêu cầu và chưa chắc đã được chấp nhận. Thẩm phán thường chỉ thay đổi hướng xử lý trong trường hợp có đầy đủ các yếu tố làm căn cứ cho sự cần thiết của việc thay đổi đó. Như vậy, trong hệ thống án lệ của Cộng hoà Pháp, yếu tố tiền lệ là một yếu tố quan trọng trong việc hình thành nên án lệ. Tuy nhiên, khác với tiền lệ trong hệ thống luật Anh – Mỹ có hiệu lực áp dụng bắt buộc mang tính pháp lý (Thẩm phán xét xử vụ việc sau bắt buộc phải áp dụng giải pháp của các Thẩm phán đã xét xử vụ việc trước tương tự), tiền lệ trong hệ thống pháp luật của Cộng hoà Pháp chỉ có hiệu lực ràng buộc về mặt tâm lý: Thẩm phán Pháp làm theo tiền lệ do tác động của yếu tố tâm lý chứ không phải do hiệu lực áp dụng bắt buộc mang tính pháp lý của tiền lệ đó.
Bên cạnh hai yếu tố trên (bản án và tiền lệ), còn có một yếu tố thứ ba tham gia vào quá trình hình thành án lệ đó là yếu tố thống nhất hoá thông qua vai trò giám sát của Toà án cấp trên đối với Toà án cấp dưới. Chính vai trò giám sát này thể hiện qua cơ chế kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm sẽ đảm bảo hình thành một án lệ thống nhất cho một địa phương (trong mối quan hệ giữa Toà phúc thẩm và các Toà sơ thẩm) hoặc cho toàn quốc (trong mối quan hệ giữa Toà án tối cao và các Toà cấp dưới. Ví dụ, trong mối quan hệ giữa Toà phúc thẩm và Toà sơ thẩm, theo nguyên tắc độc lập xét xử, Toà sơ thẩm có toàn quyền trong việc giải quyết vụ việc theo cách riêng của mình. Tuy nhiên, trên thực tế, các Toà sơ thẩm thường có xu hướng đi theo cách giải quyết mà Toà phúc thẩm đã từng áp dụng cho các vụ việc tương tự, bởi lẽ nếu xét xử theo hướng khác với quan điểm của Toà phúc thẩm, khi có kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm, thì bản án, quyết định sơ thẩm đó sẽ bị Toà phúc thẩm huỷ hoặc sửa lại. Như vậy, để tránh việc bản án, quyết định sơ thẩm của mình bị huỷ hoặc bị sửa lại, các Toà sơ thẩm đều có xu hướng tuân theo án lệ của Toà phúc thẩm dưới tác động của cơ chế kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm, mặc dù về mặt lý thuyết, các Toà sơ thẩm không có nghĩa vụ phải tuân theo án lệ đó. Cũng tương tự như vậy trong mối quan hệ giữa Toà tối cao và các Toà án cấp dưới. Về mặt lý thuyết, các Toà sơ thẩm và phúc thẩm có toàn quyền độc lập trong việc xét xử của mình, tuy nhiên trên thực tế, các Toà án này đều tuân theo án lệ của Toà tối cao dưới tác động của cơ chế kháng cáo, kháng nghị giám đốc thẩm: Nếu xét xử khác với quan điểm của Toà tối cao, trong trường hợp có kháng nghị giám đốc thẩm, thì bản án sẽ bị huỷ hoặc bị sửa.
Trong quá trình hình thành án lệ, còn một yếu tố nữa có vai trò rất quan trọng đó là công tác thông tin về án lệ nhằm công khai hoá và phổ biến rộng rãi bản án, quyết định của Toà án các cấp. Sẽ không thể có án lệ nếu các bản án, quyết định của Toà án không được phổ biến rộng rãi để mọi người cùng biết và tham khảo. Thẩm phán sơ thẩm và phúc thẩm khi đứng trước một vấn đề pháp lý cần giải quyết đều tham khảo án lệ của Toà án tối cao và của các Tòa án khác.
Người dân khi thực hiện một hành vi pháp lý cũng muốn tìm các chuẩn mực ứng xử được thể hiện trong các bản án của Toà án.
Hiệu lực thực tế của án lệ phụ thuộc rất nhiều vào công tác thông tin về án lệ này. Hiện nay ở Pháp đang có rất nhiều ấn phẩm được xuất bản định kỳ để công khai hoá và phổ biến rộng rãi các bản án, quyết định của Toà án, trong đó có cả các ấn phẩm của Nhà Nước và có cả ấn phẩm của các tổ chức, cá nhân tham gia phát hành. Ngoài các ấn phẩm trên giấy, còn có các ngân hàng dữ liệu được đưa lên mạng Intemet, có thể truy cập, tra cứu một cách dễ dàng. Công tác thông tin về án lệ rất được chú trọng. Tuy nhiên, do số lượng các bản án, quyết định do các Toà án tuyên rất lớn, không thể đăng tải và phổ biến hết tất cả các bản án, quyết định đó được, cho nên công tác biên tập, tuyển chọn đóng vai trò rất quan trọng.
Nhưng đây chính là một khâu còn bộc lộ nhiều bất cập, bởi lẽ việc lựa chọn bản án, quyết định để đăng tải phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người làm biên tập, từ đó để xảy ra trường hợp bỏ sót không đăng tải các bản án, quyết định có giá trị án lệ rất cao, hoặc ngược lại, đăng tải các bản án, quyết định không có nhiều giá trị về mặt án lệ. Để khắc phục điểm bất cập này, Cộng hoà Pháp đang chú trọng đến việc xây dựng các ngân hàng dữ liệu về án lệ được quản lý dưới dạng tin học, để làm sao tập hợp mọi bản án, quyết định của Toà án trong ngân hàng dữ liệu này.
Tóm lại, trong hệ thống lý luận của Cộng hoà Pháp, án lệ được hình thành từ ba yếu tố bao gồm bản án, tiền lệ và yếu tố thống nhất hoá. Các luật gia Pháp cho rằng với cơ chế hoạt động như trên, sự tồn tại của án lệ là một hiện tượng khách quan không thể phủ nhận. Sự tồn tại của các quy phạm án lệ là một thực tế. Tuy nhiên, vấn đề chính đặt ra và vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau đó là án lệ có phải và một nguồn luật hay không? Các quy phạm án lệ đó có tính chất của quy phạm pháp luật hay không?
II. Án lệ – Nguồn của pháp luật
Để trả lời cho câu hỏi trên, trước tiên cần làm rõ khái niệm nguồn luật để xác định xem án lệ có thể được xếp vào loại nguồn luật nào.
Theo quan niệm truyền thống ở Pháp, nguồn luật được chia làm hai loại: Nguồn hình thức và nguồn thực chất. Nguồn hình thức bao gồm các văn bản pháp luật do cơ quan Nhà Nước có thẩm quyền ban hành một cách chính thức. Nguồn thực chất là nguồn cung cấp các quy phạm pháp luật một cách không chính thức hiểu theo nghĩa và các qui phạm đó không được ban hành một cách chính thức thành văn bản, nhưng được Nhà nước công nhận và được đảm bảo thực hiện bằng quyền lực cưỡng chế của Nhà nước (trong hệ thống pháp luật của Cộng hoà Pháp, tập quán được công nhận là một nguồn thực chất của pháp luật). Nói cách khác, nguồn hình thức được hiểu là nguồn luật thành văn và nguồn thực chất là nguồn luật bất thành văn, các qui phạm pháp luật thuộc nguồn luật này không được thể hiện thành văn bản. Theo cách phân loại này, thì án lệ không được xếp vào cả hai nguồn luật trên. Án lệ đương nhiên không phải là một nguồn luật thành văn, bởi lẽ nó không được một cơ quan Nhà nước có thẩm quyền công nhận và ghi nhận chính thức trong một văn bản. Mặt khác, án lệ cũng không có tính chất của một nguồn luật thực chất, bởi vì các qui phạm án lệ không được bảo đảm thực hiện bằng quyền lực cưỡng chế của Nhà nước. Như vậy, xét trên bình diện lý thuyết về nguồn luật, án lệ không có những đặc tính cần thiết của một nguồn luật.
Xét trên bình diện pháp lý, án lệ không được công nhận là một nguồn luật chính thức trong hệ thống pháp luật của Cộng hoà Pháp. Cho dù trong thực tiễn xét xử của các Toà án có hình thành nên các qui phạm án lệ, thì các qui phạm đó cũng chỉ có giá trị là một qui phạm "phi pháp luật" và hoàn toàn không có hiệu lực ràng buộc về mặt pháp lý. Tính chất phi pháp luật của các qui phạm án lệ được thể hiện trong nội dung một số văn bản pháp luật của Cộng hoà Pháp, mặt khác xuất phát từ những lý do gắn với đặc điểm của thể chế chính trị của Cộng hoà Pháp.
Có thể kể ra đây hai điều luật chính không thừa nhận qui chế nguồn luật của án lệ, đó là Điều 5 và Điều 1351, Bộ luật dân sự 1804. Điều 5 qui định: "Cấm Thẩm phán ban hành các qui định mang tính lập pháp hay lập qui có hiệu lực áp dụng chung cho các vụ việc mà mình xét xử". Nội dung qui định tại Điều 5, Bộ luật Dân sự 1804 được xây dựng dựa trên nguyên tắc tam quyền phân lập của Cộng hoà Pháp theo đó có sự tách biệt giữa ba cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp. Quyền ban hành pháp luật được trao cho cơ quan lập pháp và hành pháp còn cơ quan tư pháp chỉ có quyền áp dụng pháp luật. Cơ quan tư pháp không được ban hành các quy định có hiệu lực áp dụng chung. Các quyết định của cơ quan tư pháp là các quyết định cá biệt, chỉ có giá trị áp dụng đối với trường hợp cụ thể mà nó giải quyết. Phát triển nội dung qui định tại Điều 5, Điều 1351, Bộ luật Dân sự 1804 quy định thêm: "Bản án, quyết định của Toà án chỉ có hiệu lực áp dụng đối với vụ việc mà nó giải quyết và các bên trong vụ việc đó". Như vậy, rõ ràng qui định tại hai Điều luật trên đã tước bỏ mọi khả năng đối với qui phạm án lệ được trở thành quy phạm pháp luật có hiệu lực áp dụng chung. Việc Toà án áp dụng một quy phạm án lệ trong việc giải quyết các vụ việc tương tự không có nghĩa là quy phạm đó đã có một hiệu lực áp dụng chung cho mọi vụ việc. Trong tương lai, sảy ra một vụ việc khác tương tự, Thẩm phán vẫn có toàn quyền giải quyết theo một hướng khác. Việc Thẩm phán tuân theo một qui phạm án là do tác động của yếu tố tâm lý (như trên đã trình bày) chứ không phải do hiệu lực áp dụng bắt buộc mang tính pháp lý của qui phạm đó. Nói cách khác, qui phạm án lệ không có đầy đủ các đặc điểm của một qui phạm pháp luật, đặc biệt là không được bảo đảm áp dụng bằng quyền lực cưỡng chế của Nhà nước, do đó không thể trở thành quy phạm pháp luật.
Ngoài ra, trong thực tiễn xét xử của các Toà án, án lệ cũng không được công nhận là nguồn luật. Thứ nhất, các Thẩm phán không viện dẫn án lệ làm căn cứ pháp lý cho bản án hay quyết định của mình. Căn cứ viện dẫn trong bản án, quyết định của Toà án luôn luôn là các văn bản pháp luật được ban hành chính thức. Thứ hai, Toà án không chấp nhận đơn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm đối với một bản án nếu người kháng cáo, kháng nghị viện dẫn sự vi phạm án lệ làm căn cứ kháng cáo, kháng nghị đối với bản án đó. Nói cách khác, Toà án chỉ vận dụng án lệ trên cơ sở phù hợp với qui định của pháp luật. Toà án tối cao của Pháp không huỷ bản án của Toà án cấp dưới chỉ vì lý do bản án đó vi phạm án lệ của mình. Căn cứ để hủy một bản án là sự vi phạm pháp luật của nó. Tuy nhiên, xác định thế nào là vi phạm pháp luật lại hoàn toàn tuỳ thuộc vào ý chí của Toà án tối cao. Một bản án của Toà án cấp dưới giải thích và áp dụng pháp luật không đúng với quan điểm của Toà án tối cao, rõ ràng, theo sự suy luận logíc, Toà án tối cao sẽ cho đó là cách giải thích sai pháp luật, hay nói cụ thể hơn, đó là sự vi phạm pháp luật. Như vậy, về mặt pháp lý, sự vi phạm án lệ của Toà án tối cao không thể là căn cứ để huỷ án của Toà án cấp dưới. Tuy nhiên, trên thực tế, nếu bản án của Toà cấp dưới có cách giải thích và áp dụng pháp luật khác với quan điểm của Toà án tối cao, thì khi có kháng cáo, kháng nghị, rõ ràng bản án sẽ bị Toà án tối cao huỷ. Ở đây, sự vi phạm án lệ của Toà án tối cao chính là lý do thực tế của việc huỷ bản án bị kháng nghị. Lý do thực tế này được nguỵ trang đằng sau một căn cứ mang tính pháp lý: Sự vi phạm pháp luật của bản án bị kháng nghị. Vấn đề tế nhị trong việc xác định quy chế nguồn luật của án lệ đặt ra chính ở chỗ này. Về mặt pháp lý, án lệ không được công nhận là nguồn luật. Tuy nhiên, trên thực tế, nó luôn được vận dụng như là một nguồn luật. Chính vì vậy, một số nhà nghiên cứu cho rằng án lệ là một nguồn luật thực tế.
– Án lệ nguồn luật thực tế.
Mặc dù quy phạm án lệ không có hiệu lực cưỡng chế mang tính pháp lý như quy phạm pháp luật nhưng trên thực tế nó có tầm ảnh hưởng rất lớn đối với các đối tượng áp dụng pháp luật cũng như các chủ thể áp dụng pháp luật. Bên cạnh đó, cũng không thể phủ nhận vai trò của án lệ hoặc việc tạo nguồn quy phạm cho pháp luật thông qua hai chức năng rất quan trọng của nó là bổ sung cho sự khiếm khuyết của pháp luật và giải thích, vận dụng pháp luật trong các trường hợp cụ thể.
Đối với các đối tượng áp dụng pháp luật là các cơ quan, tổ chức, cá nhân, quy phạm án lệ là một nguồn tham khảo quan trọng trong quá trình tuân thủ pháp luật của họ. Bởi lẽ quy phạm pháp luật đi vào đời sống thực tế thông qua sự áp dụng của Toà án vào các trường hợp tranh chấp. Dưới con mắt của các đối tượng áp dụng pháp luật, bản án, quyết định của Toà án chính là một chuẩn mực pháp lý, một sự phản chiếu các quy phạm pháp luật trong đời sống thực tế. Tuân thủ quy tắc ứng xử do Toà án quy định trong bản án chính là tuân thủ pháp luật. Tâm lý này hoàn toàn có thể hiểu được, bởi họ nhận thức được rằng nếu ứng xử trái với các quy tắc đó, thì trong trường hợp có tranh chấp đưa ra Toà, người vi phạm quy tắc đó sẽ khó có cơ may thắng kiện.
Đối với các chủ thể áp dụng pháp luật, án lệ có một tầm ảnh hưởng đặc biệt. Khi thụ lý giải quyết một vụ việc, Thẩm phán bao giờ cũng tham khảo các bản án, quyết định đã ban hành trước đây về những vụ việc tương tự để xem hướng giải thích và áp dụng pháp luật của các bản án, quyết định đó như thế nào. Đặc biệt nếu đó là một vụ việc khó, và trước đó đã từng có nhiều bản án được tuyên trong các vụ việc tương tự thì cách làm đơn giản nhất và chắc chắn nhất là giải quyết vụ việc mới này theo cách tương tự. Vô hình chung, Thẩm phán đã thừa nhận hiệu lực thực tế của án lệ. Chính từ sự tích tụ số lượng các bản án tương tự trong các vụ việc tương tự, các Thẩm phán rút ra một quy phạm án lệ để áp dụng cho các vụ việc tương tự tiếp theo. Quá trình này sẽ chỉ chấm dứt chừng nào có các yếu tố mới nảy sinh làm thay đổi quan điểm xét xử của Toà án đối với các vụ việc đó.
Rõ ràng, đối với cả các đối tượng áp dụng pháp luật và các chủ thể áp dụng pháp luật, án lệ đều thể hiện là một quyền lực thực tế mà họ tự nguyện tuân theo không cần phải có sự cưỡng chế thực hiện của Nhà nước. Ngoài ra, tính chất là nguồn luật thực tế của án lệ còn bộc lộ thông qua sự đóng góp quan trọng của nó vào việc tạo nguồn quy phạm cho pháp luật khi nó bổ sung cho sự khiếm khuyết của pháp luật hay khi nó giải thích và vận dụng một cách sáng tạo các qui phạm pháp luật trong từng trường hợp cụ thể.
– Án lệ bổ sung cho sự khiếm khuyết của pháp luật
Theo qui định tại Điều 41, Bộ luật Dân sự 1804, Thẩm phán có nghĩa vụ phải xét xử kể cả trong trường hợp pháp luật không qui định hoặc qui định không rõ ràng về vấn đề mà mình đang thụ lý. Xét xử là một nghĩa vụ pháp lý mà Thẩm phán không thể viện dẫn bất cứ lý do gì để từ chối và nếu vi phạm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội từ chối xét xử. Trong khi đó, thực tế cho thấy không thiếu các trường hợp Thẩm phán phải đứng trước khoảng trống của pháp luật về vấn đề mình đang phải xử lý. Như vậy, với nghĩa vụ phải xét xử rõ ràng Thẩm phán sẽ đóng vai trò là người bổ sung cho sự khiếm khuyết của pháp luật. Trong những trường hợp này, Thẩm phán dựa trên cơ sở các nguyên tắc chung của pháp luật để sáng tạo ra một quy phạm áp dụng riêng cho trường hợp cụ thể đó. Tất nhiên, quy phạm này chỉ mang tính chất cá biệt, nằm trong một quyết định cá biệt có giá trị áp dụng đối với một trường hợp cụ thể, nhưng dù sao nó cũng tạo ra một tiền lệ, để sau này, khi xảy ra một vụ việc tương tự, Thẩm phán sau sẽ giải quyết theo cùng một hướng và một án lệ mới sẽ dần hình thành từ đó.
Vai trò bổ khuyết cho pháp luật của án lệ là hết sức quan trọng, bởi lẽ nhà làm luật không thể dự liệu được hết mọi vấn đề pháp lý có thể nảy sinh trong đời sống xã hội, những khoảng trống của pháp luật là khó tránh khỏi.
Điều này có thể do sự vô tình nhưng cũng có thể do sự cố ý của nhà làm luật. Thực tế lập pháp của Cộng hoà Pháp cho thấy không hiếm các trường hợp nhà lập pháp cố tình để lại một số khoảng trống của pháp luật để giành quyền cho Thẩm phán lấp đầy các khoảng trống đó. Ví dụ điển hình nhất thể hiện ở các cấu trúc dạng như: "… không trái với đạo đức xã hội", "…Không trái với trật tư công cộng". Nhưng thế nào là đạo đức xã hội, thế nào là trật tự công cộng, thì cần phải có sự giải thích, vận dụng cho từng trường hợp cụ thể và vai trò này được giao cho Thẩm phán.
Pháp luật hành chính của Cộng hoà Pháp là một ví dụ điển hình cho thấy án lệ có một vai trò rất lớn trong việc bổ sung cho sự khiếm khuyết của pháp luật. Có thể nói rằng án lệ hành chính là nguồn quy phạm chủ yếu của pháp luật hành chính của Cộng hoà pháp. Rất nhiều chế định quan trọng trong pháp luật hành chính hiện nay của Cộng hoà Pháp có nguồn gốc từ án lệ, ví dụ như các chế định về trách nhiệm của cơ quan hành chính, chế định về hợp đồng hành chính, chế định về khai thác, quản lý công sản, chế định về khiếu kiện hành chính… Các chế định này hiện nay vẫn đang có hiệu lực áp dụng.
– Án lệ giải thích và vận dụng pháp luật
Giải thích và vận dụng pháp luật trong từng trường hợp cụ thể là chức năng chủ yếu của Thẩm phán. Hơn nữa, theo quy định tại Điều 4, Bộ luật Dân sự 1804, giải thích và vận dụng pháp luật còn là một nghĩa vụ của Thẩm phán.
Những trường hợp Thẩm phán phải giải thích và vận đụng pháp luật rất đa dạng, do pháp luật quy định không rõ ràng, pháp luật quy định một cách vô lý hay đã bị lạc hậu so với tình hình thực tế mà nhà lập pháp chưa có điều kiện hay vì một lý do nào đó chưa thay thế bằng một quy định mới.
Lấy ví dụ Bộ luật Dân sự của Cộng hoà Pháp. Bộ luật này được ban hành năm 1804, tức là vào thời kỳ xã hội công nghiệp chưa phát triển, chưa có đường sắt, chưa có ô tô, máy bay, chưa có công nghệ tin học và cũng chưa có năng lượng nguyên tử như ngày nay. Nhưng trải qua 200 năm kể từ khi được ban hành đến nay2, với biết bao sự biến đổi trong tình hình đời sống kinh tế, xã hội, Bộ luật Dân sự 1804 của Cộng hoà Pháp vẫn còn nguyên sức sống. Các qui định chung của Bộ luật vẫn đang hàng ngày được áp dụng trong đời sống. Vậy bằng cách nào một văn bản pháp luật có nội dung lạc hậu so với tình hình thực tế như Bộ luật dân sự 1804 lại có thể vẫn tiếp tục đuợc áp dụng cho việc giải quyết các vấn đề của xã hội hiện đại? Câu trả lời đó là nhờ vai trò giải thích và vận dụng pháp luật của án lệ. Chính Thẩm phán, trong hoạt động xét xử hàng ngày, đã giải thích và vận dụng một cách uyển chuyển các qui định, nguyên tắc của Bộ luật Dân sự để thích ứng với những nhu cầu của xã hội hiện đại, mang lại cho các qui định đó những nội dung mới, những cách hiểu mới vượt ra ngoài ý tưởng ban đầu của các tác giả soạn thảo ra Bộ luật đó.
Có thể nói rằng chính qua hai chức năng bổ khuyết cho pháp luật và giải thích, vận dụng pháp luật nêu trên, án lệ có đóng góp rất lớn vào việc tạo nguồn qui phạm cho pháp luật. Trong thực tiễn xét xử hàng ngày, Thẩm phán "gợi ý" cho nhà làm luật về những khiếm khuyết hay những điểm chưa phù hợp của pháp luật, từ đó đề suất các qui phạm mới cần ban hành. Các quy phạm đó, thời kỳ đầu tồn tại dưới hình thức và qui phạm án lệ. Sau này, khi đã được thử thách qua thực tế, rất có thể nó sẽ được nhà làm luật công nhận chính thức và nâng nó lên thành qui phạm pháp luật. Án lệ được coi là một nguồn thực tế của pháp luật là vì lý do đó.
Với tư cách là một nguồn luật thực tế, án lệ của Cộng hoà Pháp được phân biệt thành hai loại có giá trị khác nhau: Án lệ của Toà án tối cao và án lệ của các Toà phúc thẩm và sơ thẩm. Án lệ của Toà án tối cao được công nhận chính thức, nó có hiệu lực áp dụng bắt buộc đối với các Toà án cấp dưới dưới tác động của cơ chế phá án (giám đốc thẩm, tái thẩm). Toà án tối cao của Cộng hoà Pháp có thẩm quyền giải thích pháp luật và huỷ các bản án trái pháp luật của các Toà án cấp dưới. Chính với thẩm quyền này, án lệ của Toà án tối cao có hiệu lực bắt buộc thực tế đối với Toà án cấp dưới, và thông qua các Toà án này, nó có hiệu lực đối với các cá nhân, tổ chức, mặc dù về mặt pháp lý, nó không có hiệu lực áp dụng bắt buộc. Trên thực tế, tuân theo án lệ của Toà án tối cao cũng có nghĩa là tuân theo pháp luật, bởi lẽ giải thích pháp luật là một thẩm quyền được trao cho Toà án tối cao. Chính vì vậy, một số nhà nghiên cứu cho rằng án lệ của Toà án tối cao không phải là bộ nguồn luật nhưng có giá trị nhu một nguồn luật. Các quy phạm án lệ của Toà án tối cao có hiệu lực áp dụng gần như các quy phạm pháp luật. Do đó, án lệ của Toà án tối cao còn được gọi là "án lệ lập pháp", "án lệ có giá trị gần như luật". Trái lại, án lệ của các Toà phúc thẩm và sơ thẩm không được công nhận chính thức, nó chỉ có giá trị tham khảo do nhược điểm là không mang tính thống nhất trên phạm vi toàn quốc, mỗi Toà phúc thẩm có thể có một án lệ khác nhau. Án lệ của các Toà phúc thẩm phải được thống nhất hoá ở cấp Toà án tối cao thì mới được công nhận chính thức.
III. Kết luận
Trong hệ thống pháp luật của Cộng hoà Pháp, luật thành văn luôn là một nguồn luật chính thống và chủ đạo. Tuy nhiên, ngay cả trong những thời kỳ phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa "thành văn hoá" pháp luật, nhấn mạnh sự độc tôn của nguồn luật thành văn (như trong thời kỳ Cách mạng Pháp 1789 hay trong thời kỳ hiện nay khi số lượng các văn bản pháp luật do Quốc hội và Chính phủ Pháp ban hành ngày càng nhiều), án lệ vẫn khẳng định được vai trò, vị trí không thể thiếu trong việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Điều tưởng như mâu thuẫn này lại hoàn toàn có cơ sở tồn tại. Nhà làm luật nhận thức được rằng án lệ là một hiện tượng khách quan luôn đi song hành với pháp luật dù muốn hay không, sự tồn tại của các qui phạm án lệ và vai trò điều chỉnh quan hệ xã hội của nó là không thể phủ nhận bên cạnh sự tồn tại của các qui phạm pháp luật. Quan hệ xã hội không chỉ chịu sự điều chỉnh của các loại qui phạm khác, trong đó có qui phạm án lệ.
Tuy nhiên, điều đặc biệt đối với qui phạm án lệ thể hiện ở chỗ trong mối quan hệ với quy phạm pháp luật, qui phạm án lệ có vẻ như cạnh tranh trực tiếp mang tính loại trừ các quy phạm này. Trong khi đó, đối với các quy phạm "phi pháp luật" khác, vị trí độc tông của quy phạm pháp luật là tuyệt đối. Nhận thức được sự tồn tại tất yếu của án lệ, nhà làm luật của Cộng hoà Pháp đã tìm cách chuyển hoá để du nhập nó vào hệ thống luật thành văn. Quá trình chuyển hoá này đã cho ra đời một sản phẩm án lệ mang tính dung hoà, vừa dung nạp những ưu điểm của tiền lệ trong hệ thống luật Anh – Mỹ (Case Law) vừa thích ứng với những ràng buộc của hệ thống luật thành văn (Civil Law), đó là án lệ của Toà phá án (Toà án tối cao). Các quy phạm án lệ của Toà phá án không phải là quy phạm pháp luật nhưng có giá trị gần như luật và có hiệu lực áp dụng bắt buộc không kém gì các quy phạm pháp luật. Hiệu lực bắt buộc của án lệ của Toà phá án được đảm bảo bằng chính thẩm quyền mà Hiến pháp và Luật trao cho cơ quan tài phán tối cao này, đó là thẩm quyền giải thích pháp luật và giám sát sự tuân thủ pháp luật trong hoạt động xét xử của các Toà án cấp dưới. Tóm lại, án lệ tư pháp của Cộng hoà Pháp không phải là một nguồn luật chính thống, nhưng nó là một nguồn luật thực tế. Điều này khác với án lệ hành chính, được coi là nguồn chủ đạo của pháp luật hành chính của Cộng hoà Pháp. Do vậy, khi nghiên cứu về án lệ của Cộng hoà Pháp, cần phân biệt giữa hai loại án lệ này./.
Chú thích:
1 . Điều 4, Bộ luật Dân sự 1804: "Thẩm phán có nghĩa vụ phải xét xử vụ việc kể cả trong trường hợp pháp luật không có qui định hoặc qui định không rõ ràng về vấn đề pháp lý đặt ra trong vụ việc đó. Nếu vi phạm nghĩa vụ trên thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội từ chối xét xử"
2 Năm 2004, Pháp tổ chức kỷ niệm 200 năm ngày ban hành Bộ luật dân sự 1804.
SOURCE: TẠP CHÍ TÒA ÁN NHÂN DÂN ĐIỆN TỬ
Trích dẫn từ: http://tapchitoaan.vn/bai-viet/an-le/he-thong-an-le-cua-cong-hoa-phap/B1zh8PtC-.html