Khái quát chung về biện pháp thực hiện Điều ước quốc tế về quyền con người
Hệ thống các văn kiện pháp lý quốc tế về quyền con người
Một trong những thành tựu lớn nhất của nhân loại trong thể kỷ 20 là đã tạo dựng được một hệ thống pháp luật quốc tế về quyền con người. Hệ thống này trước hết phải kể đến Hiến chương Liên hợp quốc (1945), Tuyên ngôn Nhân quyền (1948) và hai Công ước quốc tế về quyền con người năm 1966 (Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hoá và xã hội và Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị). Bên cạnh đó, hệ thống này còn có hàng trăm văn kiện quốc tế khác được ban hành dưới nhiều cấp độ pháp lý hình thức khác nhau như điều ước, công ước, nghị định thư, hướng dẫn, khuyến nghị… được các quốc gia thừa nhận và tôn trọng.
1.Hiến chương Liên hợp quốc
Hiến chương Liên hợp quốc được ban hành ngay sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc vào năm 1945. Đây là văn bản quốc tế rất quan trọng, không chỉ là cơ sở pháp lý quốc tế quan trọng thành lập Liên hợp quốc mà còn là văn kiện ghi nhận sự bảo vệ quyền con người trên phạm vi toàn cầu. Hiến chương đã đặt nền móng cho việc thiết lập một cơ chế pháp lý quốc tế về bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển của các quyền con người trên thế giới.
Lời mở đầu của Hiến chương xác định quyết tâm của nhân dân các nước: “…phòng ngừa cho những thế hệ tương lại khỏi thảm hoạ chiến tranh; …Tin tưởng vào những nguyên tắc cơ bản, nhân phẩm và giá trị của con người, vào quyền bình đẳng nam nữ, vào quyền bình đẳng giữa các nước lớn và nhỏ; Tạo mọi điều kiện cần thiết để giữ gìn công lý và tôn trọng những nghĩa vụ do những điều ước và các nguồn khác của Luật quốc tế đặt ra; Khuyến khích sự tiến bộ xã hội và nâng cao điều kiện sống trong một nền tự do rộng rãi hơn”. Điều 1 của Hiến chương xác định mục đích của Liên hợp quốc là “thực hiện sự hợp tác quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế về kinh tế, xã hội, văn hoá và nhân đạo và khuyến khích phát triển sự tôn trọng các quyền con người và tự do cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo”. Điều 3 Hiến chương kêu gọi các quốc gia “thúc đẩy và khuyến khích sự tôn trọng quyền con người”. Hiến chương kêu gọi tất cả các nước cùng phối hợp hành động với Liên hợp quốc để đạt được việc tôn trọng và thực hiện quyền con người trên phạm vi toàn cầu.
2.Bộ luật quốc tế về quyền con người
Khái niệm Bộ luật quốc tế về quyền con người lần đầu tiên được ghi vào Nghị quyết số 43, của Đại hội đồng Liên hợp quốc năm 1946 với nội dung: Giao cho Uỷ ban nhân quyền chuẩn bị Bộ luật quốc tế về quyền con người.
Theo quan niệm của Uỷ ban nhân quyền, Bộ luật quốc tế về quyền con người bao gồm Tuyên ngôn (Văn kiện đề cập tới mục tiêu, nguyên tắc, các chuẩn mực) và các công ước đề cập tới những quyền cụ thể cùng với các quy định thực hiện công ước.
a/ Tuyên ngôn về quyền con người
Ngày 10-12-1948, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (gọi chung là Tuyên ngôn). Đây là Văn kiện đầu tiên của bộ luật quốc tế về quyền con người.
Tuyên ngôn bao gồm Lời nói đầu và 30 điều quy định về các quyền và một điều quy định về bảo vệ Tuyên ngôn. Nội dung chủ yếu của Lời nói đầu là ghi nhận các nguyên tắc quan trọng nhất trong việc bảo vệ quyền con người. Những nguyên tắc, đó là: bảo đảm cho con người quyền thoát khỏi đói nghèo; thừa nhận nhân phẩm các quyền bình đẳng và quyền tự do; quyền con người phải được bảo vệ bằng pháp luật.
Từ Điều 1 đến Điều 21, Tuyên ngôn đề cập đến nhóm quyền dân sự, chính trị mà con người phải được hưởng, gồm: quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân (Điều 3); quyền không bị làm nô lệ hoặc nô dịch (Điều 4); quyền không bị tra tấn, bị đối xử hay trừng phạt vô nhân đạo (Điều 5); quyền được thừa nhận tư cách một con người trước pháp luật (Điều 6);…
Từ Điều 22 đến Điều 27, Tuyên ngôn đề cập đến các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá, bao gồm: quyền được bảo đảm an ninh xã hội (Điều 22); quyền làm việc và được trả lương ngang nhau cho những công việc như nhau, được trả lương xứng đáng và hợp lý để đảm bảo cho một cuộc sống có giá trị như một con người, được thành lập hoặc gia nhập công đoàn (Điều 23);…
Điều 28 của Tuyên ngôn ghi nhận: “Mọi người đều có quyền được bảo đảm có một trật tự xã hội (quốc gia) và quốc tế, trong đó các quyền tự do cơ bản nêu trong bản Tuyên ngôn có thể được thực hiện một cách đầy đủ”.
b/ Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hoá và xã hội
Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá có hiệu lực từ ngày 3/1/1976, có 31 điều.
Điều 1 của Công ước quy định về quyền tự quyết của các dân tộc, theo đó các dân tộc quyết định thể chế chính trị của mình và tự do phát triển kinh tế, văn hoá và xã hội. Quyền tự quyết là một yếu tố nền tảng của pháp luật quốc tế và là mối quan tâm hàng đầu của cộng đồng quốc tế. Quy định về quyền tự quyết đặc biệt quan trọng vì việc công nhận quyền này là điều kiện cần thiết để bảo vệ có hiệu quả các quyền của mỗi cá nhân trong cộng đồng dân tộc.
Điều 2 của Công ước quy định: “Quốc gia thành viên Công ước này cam kết tiến hành các biện pháp riêng rẽ và thông qua hợp tác và hỗ trợ quốc tế, đặc biệt là các biện pháp kinh tế và kỹ thuật, sử dụng tối đa các tài nguyên sẵn có của mình nhằm thực hiện ngày càng đầy đủ các quyền được công nhận trong Công ước này bằng mọi biện pháp thích hợp, đặc biệt là các biện pháp pháp lý”. Đây là điều khoản quan trọng, chỉ rõ bản chất các nghĩa vụ pháp lý của quốc gia thành viên theo Công ước, xác định các cách thức tiến hành các biện pháp cần thiết để thực hiện các quyền được quy định tại các điều từ Điều 3 đến Điều 15 của Công ước (gồm các quyền: bình đẳng nam nữ, về việc làm, điều kiện làm việc thuận lợi và công bằng, thành lập và gia nhập công đoàn, tham gia bảo đảm và bảo hiểm xã hội, bảo vệ và trợ giúp gia đình, tiêu chuẩn sống thích đáng, tiêu chuẩn cao nhất về sức khoẻ thể chất và tinh thần, học hành, về văn hoá và được hưởng lợi ích từ các thành tựu khoa học).
c/Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị có hiệu lực từ ngày 23/3/1976, có 53 điều.
Điều 1 của Công ước quy định các dân tộc có quyền tự quyết định thể chế chính trị và tự do phát triển về kinh tế, xã hội và văn hoá.
Điều 2 quy định nghĩa vụ của các quốc gia tôn trọng và bảo đảm các quyền được công nhận trong Công ước, bảo đảm bình đẳng nam nữ về các quyền dân sự chính trị, tiến hành các biện pháp lập pháp, hành pháp, tư pháp và các biện pháp khác để thực hiện có hiệu quả các quyền được nêu trong Công ước.
Toàn bộ các điều từ Điều 6 đến Điều 27 quy định về các quyền cụ thể của con người trong lĩnh vực dân sự và chính trị. Các quốc gia cam kết công nhận và bảo đảm việc thực hiện các quyền được ghi nhận trong Công ước, gồm: quyền bình đẳng nam nữ về hưởng thụ các quyền dân sự và chính trị; quyền được sống; cấm tra tấn, nhục hình, đối xử hoặc trừng phạt vô nhân đạo hoặc nhục mạ con người; quyền tự do, an ninh thân thể và các điều kiện về bắt giữ, giam giữ, xét xử; bảo đảm các điều kiện nhân đạo trong giam giữ;…
Ngoài ra, Công ước còn quy định quốc gia có nghĩa vụ làm báo cáo quốc gia về tình hình thực thi Công ước. Các quốc gia thành viên sẽ đệ trình báo cáo về những biện pháp mình đã tiến hành để thực hiện các quyền được ghi nhận trong Công ước và về những tiến bộ đạt được trong việc thực hiện các quyền đó. Mỗi quốc gia thành viên phải đệ trình báo cáo trong vòng 1 năm sau khi Công ước có hiệu lực với quốc gia đó và trình báo cáo định kỳ 5 năm một lần.
3.Một số điều ước quốc tế khác quan trọng về quyền con người
a/ Công ước quốc tề về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc
Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc, có hiệu lực từ ngày 4/1/1969, gồm 25 điều.
Các điều từ Điều 1 đến Điều 7 quy định nghĩa vụ của các quốc gia thành viên trong việc xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc, theo đó:
– Quốc gia thành viên cam kết không tham dự vào các hành động hoặc thực hiện sự phân biệt chủng tộc chống lại các cá nhân, nhóm người và bảo đảm mọi quan chức chính quyền, các cơ quan nhà nước, quốc gia và địa phương sẽ hành động phù hợp với nghĩa vụ này. Cam kết không bảo trợ, giúp đỡ sự phân biệt chủng tộc của bất cứ cá nhân hay tổ chức nào. Tiến hành những biện pháp hữu hiệu để xem xét lại các chính sách của Chính phủ, Nhà nước và địa phương, sửa đổi, huỷ bỏ hoặc vô hiệu hoá các đạo luật, quy định có thể tạo ra sự phân biệt chủng tộc;
– Ngăn cấm và chấm dứt sự phân biệt chủng tộc bằng mọi biện pháp thích hợp, kể cả biện pháp pháp luật nếu cần thiết; Khuyến khích các tổ chức và phong trào đa chủng tộc của những người có tư tưởng tiến bộ, cởi mở về chủng tộc nhằm xoá bỏ hàng rào ngăn cách về chủng tộc. Trong điều kiện có thể được, tiến hành những biện pháp cụ thể trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hoá và các lĩnh vực khác để bảo đảm sự phát triển phù hợp, bảo vệ các nhóm chủng tộc hoặc các cá nhân thuộc các chủng tộc đó, bảo đảm để họ được hưởng đầy đủ và bình đẳng các quyền con người và quyền tự do cơ bản;
– Trừng phạt theo pháp luật mọi hành động reo rắc ý tưởng dựa trên tính hơn trội về chủng tộc, sự căm thù, kích động phân biệt chủng tộc. Cấm những tổ chức và những hoạt động tuyên truyền nhằm khuyến khích và kích động phân biệt chủng tộc. Cấm các quan chức, các cơ quan nhà nước khuyến khích hay kích động phân biệt chủng tộc. Cấm và loại trừ nạn phân biệt chủng tộc dưới mọi hình thức và đảm bảo quyền bình đẳng trước pháp luật của mọi người, không phân biệt chủng tộc, màu da, dân tộc hay nguồn gốc dân tộc.
– Đảm bảo cho mỗi người có được sự bảo vệ và có được các giải pháp của các cơ quan nhà nước nhằm chống lại mọi hành động phân biệt chủng tộc, mọi hành vi vi phạm các quyền con người và các quyền tự do cơ bản khác trái với Công ước này cũng như đảm bảo được xét xử công bằng, được đền bù thoả đáng những thiệt hại do nạn phân biệt chủng tộc gây ra; Tiến hành các biện pháp hiệu quả trong lĩnh vực giáo dục, văn hoá, thông tin để chống lại các định kiến có thể dẫn tới phân biệt chủng tộc; khuyến khích sự hiểu biết, lòng khoan dung và quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia, dân tộc, nhóm chủng tộc.
b/ Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ
Công ước có hiệu lực từ ngày 3/9/1980, gồm 30 điều.
Các quốc gia thành viên Công ước có nghĩa vụ:
– Lên án sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ dưới mọi hình thức và áp dụng mọi biện pháp thích hợp để loại trừ phân biệt đối xử đối với phụ nữ, kể cả biện pháp lập pháp trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá; bảo đảm sự phát triển và tiến bộ đầy đủ của phụ nữ để họ có thể hưởng thụ các quyền con người và tự do cơ bản trên cơ sở bình đẳng với nam giới; loại bỏ các hình thức buôn bán phụ nữ và bóc lột phụ nữ làm nghề mại dâm.
– Áp dụng mọi biện pháp thích hợp để xoá bỏ sự phân biệt đối xử với phụ nữ trong đời sống chính trị và công quyền của đất nước; bảo đảm thực hiện các quyền sau đối với phụ nữ: tham gia bỏ phiếu trong mọi cuộc bầu cử và trưng cầu ý dân, ứng cử vào các cơ quan dân cử; quyền được xây dựng và thực hiện các chính sách của chính phủ, các chức vụ Nhà nước; các tổ chức và hiệp hội phi chính phủ liên quan đến đời sống cộng đồng và chính trị của đất nước; quyền có cơ hội đại diện cho chính phủ tại các diễn đàn quốc tế và các tổ chức quốc tế; bình đẳng với nam giới trong vấn đề quốc tịch.
– Phụ nữ phải được hưởng quyền bình đẳng với nam giới về điều kiện nghề nghiệp, hướng nghiệp, học tập, bằng cấp, học bổng. Phụ nữ được hưởng cơ hội làm việc bình đẳng, tự do lựa chọn nghề nghiệp, quyền được thăng chức, tăng lương, an ninh việc làm và các phúc lợi, thù lao, bảo hiểm xã hội, an toàn lao động. Các quốc gia thành viên Công ước phải ngăn chặn sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ vì lý do hôn nhân hay sinh đẻ, áp dụng chế độ nghỉ đẻ được hưởng lương và các phúc lợi xã hội tương đương mà không bị mất việc, thâm niên công tác.
– Quốc gia tham gia Công ước này cũng phải có các biện pháp thích hợp bảo đảm quyền bình đẳng nam nữ trước pháp luật, trao cho phụ nữ tư cách pháp lý như nam giới và tạo điều kiện để họ thực hiện tư cách này. Đặc biệt phải bảo đảm để phụ nữ được bình đẳng khi ký kết các hợp đồng và quản lý tài sản, bình đẳng trong tự do đi lại và lựa chọn nơi cư trú, trong hôn nhân và quan hệ gia đình.
Công ước cũng quy định nghĩa vụ của quốc gia thành viên nộp trình báo cáo quốc gia thực hiện Công ước cho Uỷ ban theo dõi thực hiện Công ước xem xét, trong đó phải nộp báo cáo đầu tiên 1 năm sau khi gia nhập Công ước và các báo cáo định kỳ 4 năm một lần.
c/ Công ước quốc tế về quyền trẻ em
Công ước có hiệu lực ngày 20/11/1989, gồm 54 điều.
Công ước Quốc tế về Quyền Trẻ em là một văn kiện pháp lý quốc tế toàn diện việc quốc tế bảo vệ các quyền cơ bản của trẻ em. Các quyền đó là: quyền được sống, quyền phát triển và tham dự vào các hoạt động xã hội, quyền được bảo vệ và được chăm sóc, quyền được bảo vệ chống lại sự ngược đãi, bóc lột, bỏ rơi…
Công ước quy định rõ trẻ em là những người dưới 18 tuổi và trong mọi hành động liên quan tới trẻ em, dù là hành động của cơ quan phúc lợi xã hội hay cơ quan nhà nước, đơn vị tư nhân, toà án, nhà chức trách hành chính, lập pháp hay tư pháp, thì những lợi ích tốt nhất cho trẻ em phải được coi là mối quan tâm hàng đầu. Quốc gia thành viên Công ước có nghĩa vụ thi hành các biện pháp lập pháp, hành chính và các biện pháp khác để bảo đảm thực hiện các quyền con người của trẻ em được ghi nhận trong Công ước./.
1.2. Các biện pháp thực hiện ĐƯQT về QCN
ĐUQT về quyền con người yêu cầu các quốc gia phải thực hiện các biện pháp lập pháp, hành pháp và tư pháp để hiện thực hóa quy định của ĐUQT. Xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia, việc áp dụng những biện pháp cụ thể nào hoàn toàn do quốc gia tự xác định phù hợp với các điều kiện, hoàn cảnh của quốc gia. Các biện pháp thường được các quốc gia áp dụng bao gồm: quy định về chuyển hóa hoặc áp dụng trực tiếp các quy định của ĐUQT; xây dựng và triển khai các chương trình, kế hoạch hành động quốc gia về quyền con người; xây dựng hệ thống thiết chế quốc gia và bảo đảm các điều kiện cho hoạt động của hệ thống thiết chế; phát hiện, xử lý và trừng trị kịp thời các hành vi vi phạm quyền con người; tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quyền con người; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về quyền con người trong cộng đồng dân cư…
1.Biện pháp thực hiện nghĩa vụ xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia
Việt Nam thừa nhận cả hai biện pháp chuyển hóa và áp dụng trực tiếp để đưa các quy định của ĐUQT về quyền con người vào hệ thống pháp luật Việt Nam, qua đó xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia theo yêu cầu của các ĐUQT. Việt Nam cũng xác định hiệu lực ưu tiên áp dụng của ĐUQT so với văn bản pháp luật Việt Nam. ĐUQT về quyền con người sẽ được thực hiện kể cả trong trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định khác.
2.Biện pháp thực hiện nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ và thực hiện quyền con người.
Việt Nam triển khai các chiến lược, chương trình và kế hoạch hành động quốc gia nhằm thực hiện quyền con người; xây dựng và tăng cường hệ thống giám sát quyền con người; ngăn ngừa xử lý các hành vi vi phạm quyền con người…
3.Biện pháp thực hiện nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ báo cáo quốc gia tình hình thực hiện ĐUQT về quyền con người
Việt Nam thành lập Ban soạn thảo theo cơ chế Nhóm công tác liên ngành; tổ chức tham vấn lấy ý kiến đóng góp của các cơ quan, tổ chức có tính đại diện rộng rãi; hợp tác, trao đổi kinh nghiệm với các quốc gia trong quá trình bảo vệ báo cáo; kiên quyết đấu tranh với các quan điểm được đưa ra dựa trên những thông tin không xác thực, thiếu khách quan về tình hình nhân quyền ở Việt Nam…
4.Một số biện pháp thực hiện nghĩa vụ thành viên khác
Việt Nam tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quyền con người; tuyên tuyền, phổ biến, giáo dục về quyền con người, quyền công dân…