Mối quan hệ biện chứng, ràng buộc giữa pháp luật quản lý thuế và các bộ phận pháp luật khác có liên quan

Mối quan hệ biện chứng, ràng buộc giữa pháp luật quản lý thuế và các bộ phận pháp luật khác có liên quan


Mối quan hệ biện chứng, ràng buộc giữa pháp luật quản lý thuế và các bộ phận pháp luật khác có liên quan
Mối quan hệ biện chứng, ràng buộc giữa pháp luật quản lý thuế và các bộ phận pháp luật khác có liên quan

LỜI NÓI ĐẦU

Thuế có vai trò rất quan trọng đối với một quốc gia, đối với đời sống xã hội và sự phát triển kinh tế của quốc gia đó. Thuế luôn luôn được gắn với yếu tố quyền lực, nó do Quốc hội lập ra dưới hình thức một đạo luật – là hình thức văn bản có tính pháp lý cao nhất do cơ quan quyền lực cao nhất đặt ra. Thuế là công cụ hiệu quả để Nhà nước điều tiết nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh phát triển, giải quyết nhiều vấn đề kinh tế xã hội của đất nước; điều tiết một phần tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân vào ngân sách nhà nước nhằm đảm bảo nhu cầu chi tiêu chung của nhà nước và xã hội. Thuế góp phần bảo đảm công bằng xã hội và hội nhập quốc tế. Từ vai trò to lớn và sự phức tạp của Thuế, Luật quản lý Thuế ra đời như một tất yếu của xã hội giúp cho quá trình thực hiện các đạo luật thuế được dễ dàng, minh bạch hơn. Mặt khác luật quản lý thuế không chỉ có mối quan hệ chặt chẽ với các luật thuế mà còn có mối quan hệ chặt chẽ với các văn bản pháp luật khác Trong nội dung bài này, chúng em xin được đi sâu làm rõ mối quan hệ biện chứng, ràng buộc giữa pháp luật quản lý thuế và các bộ phận pháp luật khác có liên quan (với các Luật thuế; Luật hành chính; Luật thương mại; Pháp luật kế toán, kiểm toán,…).

NỘI DUNG

I.Khái quát chung về pháp luật quản lý thuế:

Pháp luật quản lý thuế có thể được hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động quản lý thuế của nhà nước (quan hệ quản lý trong việc thu nộp thuế cho ngân sách nhà nước của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các đối tượng nộp thuế và các đối tượng khác có liên quan). Một cách tổng quát, có thể hình dung pháp luật quản lý thuế bao gồm các nhóm quy định cơ bản sau: một là các quy định về đăng ký, kê khai, tính thuế, nộp thuế, quyết toán thuế, truy thu và hoàn thuế; hai là các quy định về thanh tra, kiểm tra thuế và xử lý vi phạm pháp luật thuế; ba là các quy định về giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực thuế.

Căn cứ vào Luật quản lý thuế số 78/2006/QH11 năm 2006 và được hướng dẫn tại thông tư 60/2007/TT-BTC thi hành các thủ tục hành chính thuế quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế. Nội dung của luật Quản lý thuế 2006 quy định rõ quyền nghĩa vụ trách nhiệm của người nộp thuế, cơ quan quản lý thuế và của các tổ chức cá nhân có liên quan, nội dung của luật quy định cụ thể về các lĩnh vực đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, ấn định thuế, thủ tục hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế, xoá nợ tiền thuế, tiền phạt, quản lý thông tin về người nộp thuế, kiểm tra thuế, thanh tra thuế, cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế, xử lý vi phạm pháp luật về thuế, giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế. Luật cũng quy định các thủ tục hành chính thuế để thực hiện các nội dung quản lý nêu trên với mục tiêu đơn giản thủ tục, minh bạch, dễ thực hiện, tăng cường vai trò kiểm tra giám sát của nhà nước, cộng đồng xã hội trong việc thực hiện quản lý thuế, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho người nộp thuế tuân thủ pháp luật về thuế tự giác nộp đúng, đủ, kịp thời tiền thuế vào Ngân sách Nhà nước. Những nội dung cụ thể của luật quản lý thuế được hướng dẫn tại thông tư 60/2007/TT-BTC.

Dù Luật Quản lý thuế mới có hiệu lực trong thời gian ngắn nhưng bước đầu đã phát huy tác dụng tốt, những vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện nhìn chung đã được xử lý kịp thời. Tuy nhiên, để luật ngày càng đi vào cuộc sống, hiện ngành thuế đang tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế, đặc biệt là việc hỗ trợ về kiến thức nghiệp vụ thuế và nghiệp vụ kế toán cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp mới thành lập. Đồng thời, tăng cường phối hợp chặt chẽ hơn nữa với các Bộ, ngành, địa phương trong quá trình triển khai luật.

II.Nội dung mối quan hệ biện chứng giữa pháp luật quản lý thuế và các bộ phận pháp luật khác có liên quan:

1.Sự tác động của pháp luật quản lý thuế đến các bộ phận pháp luật khác có liên quan.

1.1. Pháp luật quản lý thuế là công cụ quản lý chung việc thực hiện các đạo luật thuế cụ thể:

Luật Quản lý thuế được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 29/11/2006 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2007. Luật này quy định việc quản lý các loại thuế, các khoản thu khác thuộc ngân sách nhà nước do cơ quan quản lý thuế quản lý thu theo quy định của pháp luật. Theo đó, Luật quản lý thuế là công cụ hay nói cách khác là cơ sở pháp lý để thực hiện việc quản lý chung các đạo luật thuế cụ thể. Luật quản lý thuế quản lý ở mức độ chung đối với tất cả các đối tượng, nội dung của pháp luật thuế, tức là các đạo luật thuế cụ thể đều chịu sự áp dụng của Luật quản lý thuế.

Điều 2 Luật quản lý thuế 2006 quy định về đối tượng áp dụng bao gồm:

1. Người nộp thuế:

a) Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế;

b) Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nộp các khoản thu khác thuộc ngân sách nhà nước (sau đây gọi chung là thuế) do cơ quan quản lý thuế quản lý thu theo quy định của pháp luật;

c) Tổ chức, cá nhân khấu trừ thuế; tổ chức, cá nhân làm thủ tục về thuế thay người nộp thuế.

2.Cơ quan quản lý thuế:

a) Cơ quan thuế gồm Tổng cục thuế, Cục thuế, Chi cục thuế;

b) Cơ quan hải quan gồm Tổng cục hải quan, Cục hải quan, Chi cục hải quan.

3.Công chức quản lý thuế gồm công chức thuế, công chức hải quan.

4.Cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến việc thực hiện pháp luật về thuế”.

Như vậy, Luật quản lý thuế áp dụng đối với tất cả các chủ thể liên quan đến thuế. Các chủ thể này được quy định cụ thể trong từng loại thuế. Luật Quản lý thuế quy định quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm của người nộp thuế, cơ quan quản lý thuế và của các tổ chức cá nhân có liên quan một cách chung nhất trong các điều từ Điều 6 dến Điều 20 Luật quản lý thuế 2006. Đây là cơ sở pháp lý để quản lý hoạt động của các chủ thể này, là cơ sở để phát hiện các hành vi trái pháp luật quản lý thuế.

Tại Điều 3 Luật quản lý thuế quy định về các nội dung quản lý thuế bao gồm:

“1. Đăng ký thuế, kê khai thuế, nộp thuế, ấn định thuế.

2.Thủ tục hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế.

3.Xóa nợ tiền thuế, tiền phạt.

4.Quản lý thông tin vê người nộp thuế.

5.Kiểm tra thuế, thanh tra thuế.

6.Cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế.

7.Xử lý vi phạm pháp luât về thuế..

8.Giải quyết khiếu nại tố cáo về thuế.”

Đây là những nội dung cơ bản của mỗi một loại thuế. Luật quản lý thuế quản lý tất cả các vấn đề trên, quy định về nguyên tắc, cách thức thực hiện đối với tất cả các loại thuế bao gồm: thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế đối với đất đai, và các loại thuế khác. Những nội dung này được quy định cụ thể trong các điều từ Chương II đến Chương XIII của Luật quản lý thuế 2006. Luật còn quy định các thủ tục hành chính thuế bắt buộc thực hiện trên tất cả các loại thuế cụ thể để thực hiện các nội dung quản lý nêu trên với mục tiêu đơn giản thủ tục, minh bạch, dễ thực hiện; tăng cường vai trò kiểm tra giám sát của nhà nước, cộng đồng xã hội trong việc thực hiện quản lý thuế; tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho người nộp thuế tuân thủ pháp luật về thuế tự giác nộp đúng, đủ, kịp thời tiền thuế vào ngân sách nhà nước.

Các quy định của Luật Quản lý thuế áp dụng để thực thi chính sách về thuế (cả thuế nội địa và thuế phát sinh tại cửa khẩu hải quan) và các khoản thu mang tính chất bắt buộc phải nộp ngân sách nhà nước như phí, lệ phí, tiền thuê đất, thuê mặt nước, tiền sử dụng đất, thu từ khai thác tài nguyên khoáng sản… Luật quản lý thuế có vai trò chủ chốt, chi phối và hết sức quan trọng trong việc quản lý điều hành chính sách thuế hay nói một cách trực diện hơn, luật quản lý thuế là luật tổ chức thực hiện chung nhất các luật thuế.

Mặt khác, dựa trên pháp luật quản lí thuế mà các nhà làm luật xây dựng và thực hiện các quy định về trình tự, thủ tục kê khai nộp thuế, miễn giảm, hoàn thuế, truy thu thuế, xử lí vi phạm về thuế trong từng đạo luật thuế cụ thể.

Ví dụ như trong pháp luật quản lí thuế có quy định cơ bản về trình tự, thủ tục hoàn thuế tại các điều 57 quy định các trường hợp thuộc diện hoàn thuế, Điều 58 quy định về hồ sơ hoàn thuế, Điều 59 quy định trách nhiệm của cơ quan quản lí thuế, công chức quản lí thuế trong việc tiếp nhận hồ sơ hoàn thuế, Điều 60 quy định trách nhiệm của cơ quan quản lí thuế trong việc giải quyết hồ sơ hoàn thuế.

Những quy định về trình tự, thủ tục hoàn thuế tại Luật quản lí thuế là cơ sở để xây dựng và thực hiện các trình tự, thủ tục hoàn thuế của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: Hoàn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là việc cơ quan thu thuế ra quyết định trả lại cho người nộp thuế số tiền thuế mà họ đã nộp thừa hoặc cơ quan thuế đã thu mà không có cơ sở pháp lí. Khác với mục đích của chế độ miễn thuế đã thu mà không có cơ sở pháp lí.

Trên cơ sở quy định tại điều 57 Luật quản lí thuế về các trường hợp thuộc diện hoàn thuế thì Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005 quy định cụ thể những trường hợp có thể được xét, hoàn lại số tiền thuế đã nộp tại Điều 19. Về nguyên tắc, để được xét hoàn thuế xuất khẩu hoặc thuế nhập khẩu, người nộp thuế phải lập hồ sơ xin hoàn thuế gửi cho cơ quan thu thuế. Trong hồ sơ xin hoàn thuế gửi cho cơ quan thu thuế, người nộp thuế phải xuất trình các bằng chứng chứng minh số thuế mình đã nộp thừa thuộc một trong các trường hợp được hoàn thuế trên đây. Căn cứ vào các bằng chứng nếu trong hồ sơ xin hoàn thuế và trên cơ sở đối chiếu hồ sơ đó với các trường hợp được hoàn thuế thoe quy định của pháp luật, cơ quan thu thuế có thể chấp nhận hoặc từ chối hoàn thuế trong thời hạn mười năm ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ xin hoàn thuế. Trường hợp người nộp thuế xuất trình hồ sơ không đầy đủ hoặc không hợp lệ, trong thời hạn năm ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ, cơ quan thuế phải có văn bản yêu cầu đương sự bổ sung hồ sơ. Việc thông báo chấp nhận hoặc từ chối hoàn thuế cho đương sự phải được thực hiện bằng văn bản và văn bản này trên nguyên tắc có thể bị đối kháng bởi người nộp thuế nếu họ cho rằng việc từ chối hoàn thuế là không chính đáng hoặc nội dung quyết định hoàn thuế của cơ quan thu thuế là không thỏa đáng.

1.2. Pháp luật quản lí thuế tác động tới Luật Doanh Nghiệp, Luật Hình sự, Luật Hành chính, Pháp luật Kế toán, kiểm toán

Luật quản lý thuế không chỉ có mối quan hệ chặt chẽ với các Luật thuế mà còn có mối quan hệ chặt chẽ với các văn bản pháp luật khác như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật Doanh nghiệp, Luật Hải quan, Pháp lệnh Xử lý vi phạm Hành chính, Pháp luật Kế toán, kiểm toán. Tại khoản 3 Điều 9 của Luật Doanh nghiệp có quy định bắt buộc về nghĩa vụ của Doanh nghiệp là phải đăng ký mã số thuế, kê khai thuế, nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật thuế, Điều khoản này cho thấy sự ràng buộc của Luật quản lý thuế và luật Doanh nghiệp. Tại Điều 161 Chương XVI Bộ luật Hình sự về các tội xâm phạn trật tự quản lý kinh tế, Luật quản lý thuế cũng là cơ sở để Luật Hình sự quy định về Tội trốn thuế. Luật quản lý thuế còn là căn cứ để hình thành Nghi định số 98/2007/NĐ-CP về sử lý vi phạm pháp luật về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế. Luật quản lý thuế cũng có tác động mạnh mẽ lên các quy định của Luật hành chính, vì thông thường các hành vi vi phạm về thuế sẽ bước đầu được xử lý như những vi phạm hành chính, tại Điều 36 Pháp lệnh số 44/2002/PL-UBTVQH10 về việc sử lý vi phạm hành chính đã có quy đinh rõ về thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính của cơ quan Thuế, và các mức xử phạt hành chính mà cơ quan Thuế được áp dụng. Không chỉ thế, pháp luật quản lý thuế còn có rất nhiều tác động tích cực tới pháp luật kế toán, kiểm toán. Vì hoạt động kế toán, kiểm toán là công cụ cho các cơ quan có thẩm quyền về thuế xác định các thông tin của doanh nghiệp, để từ đó xác lập nghĩa vụ nộp thuế cho ngân sách nhà nước, nên tuỳ theo từng mục đích Pháp luật quản lý thuế sẽ điều chỉnh hoạt động kế toán, kiểm toán theo hướng mà cơ quan thuế muốn tìm hiểu làm rõ, ví dụ với thuế thu nhập doanh nghiệp thì cơ quan có thẩm quyền về thuế sẽ yêu cầu các hoạt động kế toán làm rõ những khoản thu nhập cụ thể của doanh nghiệp trong một kỳ tính thuế; còn đối với thuế giá trị gia tăng thì các hoạt động kế toán, kiểm toán sẽ có yêu cầu phải tập trung làm rõ giá xuất xưởng của các sản phẩm mà công ty chế tạo ra, từ đó làm căn cứ để tính thuế.

2.Sự tác động trở lại của các bộ phận pháp luật liên quan đến pháp luật quản lí thuế

2.1. Hiệu quả thực thi các đạo luật thuế góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật quản lí thuế

Các đạo luật thuế là sự cụ thể hóa của Luật quản lí thuế đối với mỗi đối tượng áp dụng. Không có các đạo luật thuế cụ thể thì Luật quản lý thuế chẳng khác gì là một bộ luật hình thức, không có khả năng thực thi.

Để thực hiện mục tiêu nhằm hình thành nguồn thu ngân sách nhà nước một cách bền vững, hợp pháp và hợp lý Nhà nước đã xây dựng nên một số loại thuế với các mức quy định khác nhau phù hợp với thực trạng của nền kinh tế xã hội nước ta. Qua mỗi thời kỳ, những đạo luật thuế lại có sự thay đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện không ngừng. Hiện nay, trên tất cả lĩnh vực cần thiết, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ban hành hàng loạt luật, nghị định hướng dẫn cũng như thông tư, nên việc áp dụng các quy định pháp luật trong lĩnh vực thuế trở nên dễ dàng, minh bạch và hiệu quả thực hiện được nâng cao.

Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Nhìn vào tổng số tiền thuế hàng năm được nộp vào ngân sách nhà nước có thể thấy hoạt động thu của các cơ quan nhà nước, việc nộp thuế của các đối tượng nộp thuế đã có sự tự giác cao trên tinh thần lấy căn cứ là quy định của pháp luật thuế. Hiệu quả đó xuất phát từ sự quy định của pháp luật rõ ràng, cụ thể, dễ hiểu, phù hợp với thực tế các điều kiện kinh tế xã hội ở nước ta. Luật thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập các nhân, doanh nghiệp, thuế nông nghiệp… và rất nhiều loại thuế nữa đã góp phần giúp cho công tác quản lý, thu, nộp thuế được đơn giản, dễ dàng hơn.

Hệ thống quản lý thuế là cách thức, phương pháp của các cơ quan nhà nước áp dụng nhằm thực thi các quy định của pháp luật thuế một cách có hiệu quả. Hệ thống quản lý thuế bao gồm nhiều cơ quan nhà nước khác nhau được hình thành từ những năm 1998, 1999. Pháp luật các loại thuế có tác động rất lớn tới hệ thống quản lý thuế này. Nghiệp vụ, công tác quản lý thuế phụ thuộc rất lớn bởi sự quy định của pháp luật các loại thuế. Với rất nhiều sự thay đổi về thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp và các loại thuế khác đã góp phần  thúc đẩy hệ thống quản lý thuế được cập nhật kịp thời để đáp ứng với yêu cầu nghiệp vụ của ngành thuế. Vì vậy, nếu việc thực thi các đạo luật thuế có hiệu quả thì có nghĩa là các quy định của pháp luật thuế đã được thi hành trên thực tế và đạt được mục tiêu của nó. Hệ thống quản lý thuế có nhiệm vụ quản lý để làm sao việc thu, nộp thuế đúng với quy định của pháp luật, bảo đảm không thu thừa, thu vượt quy định, nhưng cũng không bỏ sót, thu thiếu, thu không đủ hoặc không thu đối với các đối tượng phải nộp thuế và đảm bảo các công việc được tiến hành theo một trình tự nhất định. Nếu các đạo luật thuế không được thực thi có hiệu quả trên thực tế thì nghĩa là hệ thống quản lý thuế chưa phát huy được vai trò của mình và còn nhiều lỗ hổng, chưa khoa học và cần phải thay đổi. Mặt khác hệ thống quản lý thuế tốt, hiện đại, khoa học thì hiệu quả thực thi các đạo luật thuế chắc chắn được nâng cao.

2.2. Luật Doanh Nghiệp, Luật Hình sự, Luật Hành chính, Pháp luật kế toán, kiểm toán và các văn bản xử phạt vi phạm về thuế là công cụ pháp lí quan trọng để thực hiện tốt pháp luật quản lí thuế

Các quy định của Luật Hình sự và Luật Hành chính là những chế tài biện pháp hữu hiệu giúp cho Pháp luật quản lý thuế được đảm bảo thực hiện trong đời sống thực tế. Mặt khác, tại Điều 65, Luật Quản lý thuế quy định các trường hợp được xoá nợ tiền thuế, tiền phạt đó là “1. Khi Doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản đã thực hiện các khoản thanh toán theo quy định của pháp luật phá sản mà không còn tài sản để nộp tiền thuế, tiền phạt; 2. Cá nhân được pháp luật coi là đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự mà không có tài sản để nộp tiền thuế, tiền phạt còn nợ”. Như vậy muốn áp dụng Điều 65 Luật Quản lý thuế này trong thực tiễn, thì ta buộc phải dựa vào những quy định cụ thể của Luật Doanh nghiệp về phá sản doanh nghiệp như điều kiện, trình tự, thủ tục phá sản, thứ tự phân chia tài sản,…Còn cá nhân như thế nào mới được coi là đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự thì cũng phải đáp ứng đủ yêu cầu của Bộ luật Dân sự về vấn đề này. Từ những ví dụ trên, ta có thể thấy rõ mối quan hệ mật thiết, sự tác động, phối hợp qua lại giữa Luật quản lý thuế và các pháp luật khác có liên quan này.

Nhà nước thực hiện các hoạt động kế toán, kiểm toán, xử phạt vi phạm về thuế nhằm kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, trung thực, hợp pháp về các thông tin hoạt động tài chính công, về tính hiệu quả và tính tuân thủ của việc sử dụng các nguồn lực tài chính công đối với các tổ chức, cá nhân có liên quan; nhằm kiểm tra việc chấp hành những quy định hiện hành về nhiệm vụ nộp ngân sách nhà nước, thực hiện nộp đúng, đủ theo quy định của pháp luật; nhằm kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng nhân sách nhà nước, chống thất thoát, lãng phí, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tài sản của Nhà nước.

Pháp luật kế toán, kiểm toán và các văn bản xử phạt vi phạm về thuế được đặt ra cũng nhằm cung cấp cơ sở dữ liệu để cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện việc quản lí thuế sát thực tế và hiệu quả hơn, cụ thể như là là điều chỉnh việc kê khai các khoản thu chi của doanh nghiệp, điều đó tạo điều kiện cho việc các khoản thu từ thuế được tính chính xác, rõ ràng, tạo điều kiện cho pháp luật quản lí thuế được thực hiện một cách có hiệu quả nhất và là căn cứ cho việc thanh tra, kiểm tra của cơ quan thuế; các thông tin này cũng giúp cơ quan có thẩm quyền cập nhật các hình thức sản xuất, kinh doanh mới từ đó có nhiều đóng góp trong nhận diện bất cập, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nộp thuế, cũng như góp phần hoàn thiện chính sách thuế.

Việt Nam đang chuyển sang cơ chế tự khai thuế. Có nghĩa là người nộp thuế tự kê khai vào tờ khai thuế và sau đó cơ quan thuế vụ chỉ cần kiểm tra hoặc không. Đây là phương thức khai và thu thuế đang được áp dụng tại nhiều quốc gia trên thế giới. Vì vậy, một mục đích quan trọng của kiểm toán thuế là khắc phục yếu kém trong hạch toán, quản lý tài chính, chấp hành pháp luật thuế, ngăn chặn trốn thuế (Nếu như có hành vi trốn thuế, các cơ quan có thẩm quyền sẽ thực hiện pháp luật quản lí thuế thông qua công cụ là văn bản xử phạt vi phạm về thuế để xử phạt hành vi trốn thuế). Như vậy, kiểm toán không chỉ phát hiện lỗi, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, mà còn giúp doanh nghiệp nhận diện những yếu kém trong quản lý tài chính, thu nộp cho ngân sách. Từ đó, doanh nghiệp có thể chấn chỉnh hạch toán kế toán, thuế, thực hiện đúng chính sách pháp luật, góp phần nâng cao uy tín, cũng như khả năng cạnh tranh. Để nâng cao hiệu quả kiểm toán thuế, Chủ tịch Hội Tư vấn thuế Việt Nam Nguyễn Thị Cúc cho rằng, cần xem xét để kiểm toán có thể sử dụng kết quả thanh tra, kiểm tra của ngành thuế, tạo mối quan hệ chặt chẽ hơn giữa các cơ quan quản lý thuế và Pháp luật Kiểm toán. Thay vì các cơ quan cùng làm một nội dung, cần tăng cường phối hợp, trao đổi số liệu giữa các đơn vị. Hơn nữa, xét về chức năng quản lý nhà nước, cơ quan thuế thay mặt nhà nước quản lý về thuế và chịu trách nhiệm thanh tra, kiểm tra thuế. Kiểm toán Nhà nước được sử dụng các số liệu này sẽ góp phần giảm chi phí xã hội, do doanh nghiệp phải cung cấp số liệu cho nhiều cơ quan.

III. Những đánh giá, giải pháp nhằm củng cố, hoàn thiện hơn mối quan hệ trên về mặt pháp luật và thực tế

Qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu đề tài, nhóm em xin được đề xuất một số ý kiến nhằm củng cố hơn mối quan hệ biện chứng, ràng buộc giữa pháp luật quản lý thuế và các bộ phận pháp luật khác có liên quan như sau:

– Thứ nhất, nâng cao vai trò, trình độ của cán bộ quản lý thuế; nâng cao ý thức của đối tượng nộp thuế thông qua các hoạt động tuyên truyền pháp luật; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế; tăng cường cơ sở vật chất, máy móc, trang thiết bị, công nghệ hiện đại phục vụ cho công tác quản lý thuế; tăng cường trách nhiệm, sự phối hợp của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền từ đó nâng cao hiệu quả của pháp luật.

– Thứ hai, Luật Quản lý thuế chưa xác định rõ cơ chế bảo đảm thực hiện, vì vậy phần nào đã hạn chế tính khả thi của các quy định trong Luật Quản lý thuế và chính điều này chưa thực sự khuyến khích tính tuân thủ pháp luật của chủ thể có nghĩa vụ thuế. Chẳng hạn, tại Điều 53, Luật Quản lý thuế quy định trách nhiệm hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế trong trường hợp xuất cảnh “Người Việt Nam xuất cảnh để định cư ở nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài trước khi xuất cảnh từ Việt Nam phải hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế. Cơ quan quản lý xuất nhập cảnh có trách nhiệm dừng việc xuất cảnh của cá nhân trong trường hợp chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế theo thông báo của cơ quan quản lý thuế”. Với quy định này, nếu không xác định rõ cơ chế phối kết hợp giữa cơ quan quản lý thuế và cơ quan công an thì chắc chắn điều luật này sẽ không có tính khả thi, bởi thực tế hiện nay, Cục thuế địa phương không thể biết đối tượng nào nợ thuế đang chuẩn bị xuất cảnh để thông báo cho cơ quan quản lý xuất nhập cảnh và ngược lạ

 – Thứ ba, Luật Quản lý thuế đã quy định trách nhiệm việc cung cấp các thông tin, tài liệu của các bên có liên quan cho cơ quan thuế và ngược lại. Tuy nhiên, chỉ cung cấp khi cơ quan thuế có yêu cầu, vì vậy có rất nhiều thông tin cần thiết nhưng cơ quan thuế không biết được đầu mối để cung cấp thông tin và yêu cầu cung cấp thông tin. Chẳng hạn, thông tin về tài khoản ngân hàng của doanh nghiệp, thường các doanh nghiệp mở rất nhiều tài khoản ở các ngân hàng thuộc các địa phương khác nhau nhưng cơ quan thuế không biết doanh nghiệp mở tài khoản ở ngân hàng nào để yêu cầu cung cấp. Vì vậy, cần có quy định cụ thể trách nhiệm của ngân hàng phải thông báo tài khoản của doanh nghiệp cho cơ quan thuế trực tiếp quản lý khi đăng ký tài khoản.

KẾT LUẬN

Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế đã trở thành một xu hướng khách quan trong tiến trình phát triển kinh tế thế giới, Việt Nam không ngừng nỗ lực từng bước tham gia vào quá trình hội nhập cùng với việc thực hiện các cam kết quốc tế về thuế với các nước trên thế giới và trong khu vực. Trong quá trình cải cách hệ thống chính sách, pháp luật quản lý thuế, bên cạnh việc đáp ứng yêu cầu phù hợp với những thay đổi của hoàn cảnh thực tế đối với Việt Nam, còn phải tuân thủ những điều khoản mà Việt Nam đã ký kết khi tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực. Từ vai trò là một trong những công cụ điều tiết vĩ mô quan trọng, vấn đề hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật quản lý thuế nói riêng là một vấn đề lớn cực kì quan trọng, song do kiến thức còn nhiều hạn chế, nhóm em chỉ xin được trình bày đến đây, rất mong sẽ nhận được sự thông cảm và góp ý của các quý thầy cô.


Mục lục

LỜI NÓI ĐẦU

NỘI DUNG

I.Khái quát chung về pháp luật quản lý thuế

II.Nội dung mối quan hệ biện chứng giữa pháp luật quản lý thuế và các bộ phận pháp luật khác có liên quan

1.Sự tác động của pháp luật quản lý thuế đến các bộ phận pháp luật khác có liên quan

1.1. Pháp luật quản lý thuế là công cụ quản lý chung việc thực hiện các đạo luật thuế cụ thể

1.2. Pháp luật quản lí thuế tác động tới Luật Doanh Nghiệp, Luật Hình sự, Luật Hành chính, Pháp luật Kế toán, kiểm toán

2.Sự tác động trở lại của các bộ phận pháp luật liên quan đến pháp luật quản lí thuế

2.1. Hiệu quả thực thi các đạo luật thuế góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật quản lí thuế

2.2. Luật Doanh Nghiệp, Luật Hình sự, Luật Hành chính, Pháp luật kế toán, kiểm toán và các văn bản xử phạt vi phạm về thuế là công cụ pháp lí quan trọng để thực hiện tốt pháp luật quản lí thuế

III. Những đánh giá, giải pháp nhằm củng cố, hoàn thiện hơn mối quan hệ trên về mặt pháp luật và thực tế

KẾT LUẬN


 

Danh mục tài liệu tham khảo:

  • Giáo trình Luật thuế Việt Nam
  • Luật quản lý Thuế năm 2006
  • Luật Thuế giá trị gia tăng
  • Luật Thuế thu nhập Doanh nghiệp năm 2008
  • Bộ luật Hình sự năm 1999 (Chương XVI)
  • Bộ luật Dân sự năm 2005
  • Luật Doanh nghiệp năm 2005
  • Luật Thương mại năm 2005
  • Luật Kiểm toán nhà nước năm 2005
  • Luật Kế toán năm 2003
  • Thông tư 60/2007/TT-BTC thi hành các thủ tục hành chính thuế quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế
  • Pháp lệnh số 44/2002/PL-UBTVQH10 về việc sử lý vi phạm hành chính.
  • Nghi định số 98/2007/NĐ-CP về sử lý vi phạm pháp luật về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế

 

1900.0191