QUY ĐỊNH MỚI CỦA LUẬT TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA NHÀ NƯỚC NĂM 2017 VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT YÊU CẦU BỒI THƯỜNG
THS. HOÀNG THỊ THANH HOA
Theo Báo cáo số 181/BC-BTP ngày 15/7/2016 của Bộ Tư pháp tổng kết 06 năm thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đánh giá: “Quy định về trình tự, thủ tục giải quyết bồi thường còn nhiều hạn chế, thủ tục hành chính rườm rà, thời hạn giải quyết không phù hợp, chưa tạo điều kiện cho cơ quan giải quyết bồi thường chủ động ra quyết định giải quyết bồi thường đối với thiệt hại đã rõ ràng, tính được ngay theo quy định của pháp luật nên chưa kịp thời đảm bảo quyền lợi của người bị thiệt hại…”[1]. Khắc phục những bất cập nêu trên, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 (Sau đây gọi tắt là Luật TNBTCNN năm 2017) đã sửa đổi, bổ sung các quy định theo hướng cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính trong việc giải quyết bồi thường.[2]
Thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường được thực hiện theo quy định tại chương V Luật TNBTCNN năm 2017 gồm 19 Điều ( từ Điều 41 đến Điều 59), quy định về: thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường tại cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại; giải quyết vụ án dân sự về yêu cầu bồi thường; giải quyết yêu cầu bồi thường trong quá trình tố tụng hình sự, tố tụng hành chính tại Tòa án; phục hồi danh dự cho người bị thiệt hại.
1. Vềthủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường tại cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại
Thứ nhất, về thời hạn giải quyết yêu cầu bồi thường
Trước đây theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 (Sau đây gọi tắt là TNBTCNN năm 2009), quy định trình tự thủ tục giải quyết bồi thường gồm 6 bước: Thụ lý, cử người đại diện, tiến hành xác minh, tiến hành thương lượng, ra quyết định giải quyết bồi thường, cấp và chi trả tiền. Trong đó tổng thời gian giải quyết yêu cầu bồi thường từ 95 ngày đến 125 ngày. Luật TNBTCNN năm 2017 đã thực hiện rút ngắn số ngày giải quyết trong tất cả các bước, từ thụ lý, tiến hành xác minh, thương lượng, ra quyết định bồi thường, cấp và chi trả tiền bồi thường, tổng thời gian giải quyết bồi thường chỉ còn từ 41 ngày – 71 ngày[3], bằng một nửa so với trước đây.
Thứ hai, về hồ sơ yêu cầu bồi thường
– Luật TNBTCNN năm 2017 quy định rõ các loại văn bản tài liệu cần có trong hồ sơ yêu cầu bồi thường trong trường hợp người bị thiệt hại trực tiếp yêu cầu bồi thường và tài liệu cần có trong hồ sơ yêu cầu bồi thường trong trường hợp người yêu cầu bồi thường là người thừa kế hoặc là người đại diện của người bị thiệt hại[4].
– Luật mới cũng quy định cụ thể chi tiết về nội dung đơn yêu cầu bồi thường tại khoản 3 điều 41, trường hợp người bị thiệt hại chỉ yêu cầu phục hồi danh dự thì văn bản yêu cầu bồi thường phải có nội dung theo quy định riêng. Các quy định này có ý nghĩa rất quan trọng, hướng dẫn chi tiết cho người dân khi thực hiện các thủ tục lập hồ sơ đề nghị bồi thường.
Về cách thức gửi hồ sơ, Luật TNBTCNN năm 2017 quy định hai cách thức:“trực tiếp hoặc gửi qua dịch vụ bưu chính” và giấy tờ, tài liệu gửi kèm tương ứng với từng cách thức gửi hồ sơ.
Đặc biệt, Luật bổ sung quy định trong trường hợp người yêu cầu bồi thường chưa xác định được ngay cơ quan giải quyết bồi thường thì có thể gửi hồ sơ tới Sở Tư pháp nơi người bị thiệt hại cư trú hoặc có trụ sở. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, Sở Tư pháp có trách nhiệm xác định cơ quan giải quyết bồi thường, chuyển hồ sơ đến cơ quan giải quyết bồi thường và thông báo bằng văn bản cho người yêu cầu bồi thường[5].
Quy định trách nhiệm của Sở Tư pháp trong việc xác định cơ quan giải quyết bồi thường đã khắc phục được tình trạng đùn đẩy, né tránh trách nhiệm giải quyết bồi thường của các cơ quan nhà nước [6] đang diễn ra trong thực tiễn.
Thứ ba, về tiếp nhận và xử lý hồ sơ yêu cầu bồi thường
Luật TNBTCNN năm 2017 bổ sung quy định mới về thủ tục tiếp nhận và thụ lý hồ sơ yêu cầu bồi thường.
* Trong thủ tục tiếp nhận hồ sơ yêu cầu bồi thường.
+ Về trách nhiệm của cơ quan giải quyết bồi thường: Luật quy định rõ trách nhiệm của cơ quan giải quyết bồi thường khi nhận được hồ sơ và những công việc cụ thể cần làm khi tiếp nhận hồ sơ đối với trường hợp nhận hồ sơ trực tiếp và trường hợp nhận qua đường bưu điện.
+ Về trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan giải quyết bồi thường: Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, thủ trưởng cơ quan giải quyết bồi thường thực hiện các việc sau:
Yêu cầu người yêu cầu bồi thường bổ sung hồ sơ trong trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 41 của Luật TNBTNN năm 2017;
Yêu cầu cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền cung cấp văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường trong trường hợp người yêu cầu bồi thường đề nghị cơ quan giải quyết bồi thường thu thập văn bản đó hoặc làm rõ nội dung văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường trong trường hợp nội dung của văn bản đó không rõ ràng.
+Về trách nhiệm của người yêu cầu bồi thường: Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu của Thủ trưởng cơ quan giải quyết bồi thường, người yêu cầu bồi thường phải bổ sung hồ sơ; cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền phải cung cấp văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường hoặc làm rõ nội dung văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường.[7]
* Về thụ lý hồ sơ yêu cầu bồi thường:
Theo quy định tại Điều 17 Luật TNBTCNN năm 2009 về thụ lý đơn yêu cầu bồi thường: “Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn và các giấy tờ hợp lệ, nếu xác định yêu cầu bồi thường thuộc trách nhiệm giải quyết của mình thì cơ quan đã nhận hồ sơ phải thụ lý và thông báo bằng văn bản về việc thụ lý đơn cho người bị thiệt hại; trường hợp yêu cầu bồi thường không thuộc trách nhiệm giải quyết của mình thì cơ quan đã tiếp nhận hồ sơ phải trả lại hồ sơ và hướng dẫn người bị thiệt hại gửi đơn đến cơ quan có thẩm quyền để yêu cầu giải quyết bồi thường”.
Luật TNBTCNN năm 2017 đã quy định rút ngắn thời gian thụ lý hồ sơ:“trong 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ” (thay cho trước đây là 05 ngày) cơ quan giải quyết bồi thường phải vào sổ thụ lý. Một điểm mới đáng lưu ý của trình tự thụ lý theo Luật TNBTCNN năm 2017 là Luật bổ sung quy định về các trường hợp không thụ lý hồ sơ yêu cầu bồi thường[8]. Cơ quan giải quyết bồi thường không thụ lý hồ sơ khi có một trong các căn cứ sau đây:
+ Yêu cầu bồi thường không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình;
+ Thời hiệu yêu cầu bồi thường đã hết;
+ Yêu cầu bồi thường không thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được quy định tại Chương II của Luật này;
+ Người yêu cầu bồi thường không phải là người có quyền yêu cầu bồi thường theo quy định tại Điều 5 của Luật này;
+ Hồ sơ không đầy đủ theo quy định tại Điều 41 của Luật này mà người yêu cầu bồi thường không bổ sung trong thời hạn quy định tại khoản 3 Điều 42 của Luật này;
+ Yêu cầu bồi thường đã được thực hiện theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 52 của Luật này và đã được Tòa án có thẩm quyền thụ lý theo thủ tục tố tụng dân sự;
+ Yêu cầu bồi thường đã được Tòa án có thẩm quyền chấp nhận theo quy định tại khoản 1 Điều 55 của Luật này;
+ Yêu cầu bồi thường đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
Do đó các cơ quan giải quyết bồi thường trong quá trình thụ lý hồ sơ cần đặc biệt lưu ý quy định này.
Về việc cử người giải quyết bồi thường, Luật TNBTCNN năm 2017 quy định: “Trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày thụ lý hồ sơ, cơ quan giải quyết bồi thường phải cử người giải quyết bồi thường”. Người giải quyết bồi thường phải đáp ứng được các điều kiện:
+Là người có kinh nghiệm về chuyên môn, nghiệp vụ trong ngành, lĩnh vực phát sinh yêu cầu bồi thường;
+Không được là người có quyền và lợi ích liên quan đến vụ việc hoặc là người thân thích theo quy định của Bộ luật Dân sự của người thi hành công vụ gây thiệt hại hoặc của người bị thiệt hại.
Việc thụ lý hồ sơ, không thụ lý hồ sơ và cử người giải quyết bồi thường phải được thông báo bằng văn bản cho người yêu cầu bồi thường và cơ quan quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước.
Có thể thấy, thủ tục tiếp nhận, thụ lý hồ sơ yêu cầu bồi thường của Luật TNBTCNN năm 2017 đã có những quy định chặt chẽ hơn hẳn so với Luật TNBTCNN năm 2009.
Thứ tư, về tạm ứng kinh phí bồi thường
Luật quy định rõ các loại thiệt hại mà người yêu cầu bồi thường được đề nghị tạm ứng kinh phí bồi thường. Kinh phí bồi thường được tạm ứng đối với những thiệt hại sau đây:
Thiệt hại về tinh thần quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 6 Điều 27 của Luật TNBTNN 2017.
-Thiệt hại khác có thể tính được ngay mà không cần xác minh.[9]
Thiệt hại về tinh thần theo quy định là các loại thiệt hại sau:
+ Thiệt hại về tinh thần trong trường hợp bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn;
+ Thiệt hại về tinh thần trong trường hợp bị áp dụng biện pháp tạm giữ người theo thủ tục hành chính, bị đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc;
+ Thiệt hại về tinh thần trong trường hợp người bị thiệt hại bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án, bị áp dụng biện pháp ngăn chặn trong hoạt động tố tụng hình sự;
+ Thiệt hại về tinh thần trong trường hợp người bị thiệt hại chết;
+ Thiệt hại về tinh thần trong trường hợp công chức bị xử lý kỷ luật buộc thôi việc trái pháp luật.
Luật TNBTCNN năm 2017 cũng quy định rõ trình tự, thủ tục tạm ứng kinh phí bồi thường và trách nhiệm của cơ quan tài chính trong việc cấp tạm ứng kinh phí bồi thường: “Ngay sau khi thụ lý hồ sơ, người giải quyết bồi thường có trách nhiệm xác định giá trị các thiệt hại quy định tại khoản 1 Điều này và đề xuất Thủ trưởng cơ quan giải quyết bồi thường việc tạm ứng kinh phí bồi thường và mức tạm ứng cho người yêu cầu bồi thường”[10]
Việc cấp kinh phí bồi thường được thực hiện trong một khoảng thời gian rất ngắn (07 ngày) và mức tạm ứng do thủ trưởng cơ quan giải quyết bồi thường quyết định nhưng không dưới 50% giá trị các thiệt hại.
Báo cáo số 181/BC-BTP ngày 15/7/2016 của Bộ Tư pháp tổng kết 06 năm thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đánh giá:“Quyền lợi của người bị thiệt hại chưa được đảm bảo kịp thời, kể cả đối với những thiệt hại đã cụ thể, rõ ràng chỉ cần căn cứ vào quy định của Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành là tính được ngay”[11]. Do đó, quy định về tạm ứng kinh phí bồi thường của Luật TNBTCNN năm 2017 là một quy định mới rất tiến bộ, khắc phục được bất cập nêu trên của Luật TNBTCNN năm 2009, đảm bảo kịp thời quyền lợi của người được bồi thường.
Thứ năm, về xác minh thiệt hại
Điều 18 luật TNBTCNN năm 2009 quy định về thời gian xác minh thiệt hại: “Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu bồi thường; trường hợp vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn xác minh thiệt hại không quá 40 ngày”. Luật TNBTCNN năm 2017 đã rút ngắn thời hạn xác minh thiệt hại so với Luật TNBTCNN năm 2009. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày thụ lý hồ sơ, người giải quyết bồi thường phải hoàn thành việc xác minh thiệt hại. Trường hợp vụ việc phức tạp hoặc phải xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn xác minh thiệt hại là 30 ngày kể từ ngày thụ lý hồ sơ.
Thời hạn xác minh thiệt hại có thể được kéo dài theo thỏa thuận giữa người yêu cầu bồi thường và người giải quyết bồi thường nhưng tối đa là 15 ngày kể từ ngày hết thời hạn quy định tại khoản 2 điều 45 Luật TNBTCNN 2017.
Việc quy định rõ ràng các loại thời hạn đã khắc phục tình trạng các cơ quan có trách nhiệm giải quyết bồi thường không đảm bảo thời hạn theo quy định của pháp luật, nhất là ở giai đoạn xác minh, thương lượng thiệt hại được bồi thường giữa cơ quan có trách nhiệm bồi thường và người bị thiệt hại[12].
Luật TNBTCNN năm 2017 đã bổ sung quy định về việc lập báo cáo xác minh thiệt hại để làm căn cứ thương lượng việc bồi thường. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày kết thúc việc xác minh thiệt hại, người giải quyết bồi thường phải hoàn thành báo cáo xác minh thiệt hại làm căn cứ để thương lượng việc bồi thường.[13]
– Về thành phần tham gia xác minh thiệt hại, Luật TNBTCNN năm 2009 không xác định rõ các cơ quan có trách nhiệm tham gia xác minh. Nay Luật TNBTCNN năm 2017 đã xác định rõ: Trong trường hợp vụ việc phức tạp, cơ quan giải quyết bồi thường có thể đề nghị đại diện cơ quan quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước, cơ quan tài chính có thẩm quyền tham gia vào việc xác minh thiệt hại[14].
Thứ sáu, về thương lượng việc bồi thường
Luật TNBTCNN năm 2017 sửa đổi, bổ sung toàn diện quy định về thương lượng việc bồi thường (Điều 46), tạo điều kiện tối đa cho các bên trong quá trình thương lượng giải quyết bồi thường, cụ thể như sau:
– Rút ngắn thời hạn thương lượng việc bồi thường so với Luật TNBTCNN năm 2009. Theo Điều 19 Luật TNBTCNN năm 2009, thời hạn tiến hành thương lượng kéo dài từ 30 đến 45 ngày. Luật TNBTNN năm 2017 quy định: trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày hoàn thành báo cáo xác minh thiệt hại, cơ quan giải quyết bồi thường phải tiến hành thương lượng việc bồi thường, quá trình tiến hành thương lượng cũng được rút ngắn chỉ còn từ 10 đến 15 ngày. Thời hạn thương lượng có thể được kéo dài theo thỏa thuận giữa người yêu cầu bồi thường và người giải quyết bồi thường nhưng tối đa là 10 ngày kể từ ngày hết thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 46.
– Luật bổ sung quy định về nguyên tắc thương lượng[15], bao gồm các nguyên tắc sau:
+ Người yêu cầu bồi thường, cơ quan giải quyết bồi thường đều bình đẳng trong quá trình thương lượng;
+ Bảo đảm dân chủ, tôn trọng ý kiến của các thành phần tham gia thương lượng;
+ Nội dung thương lượng, kết quả thương lượng về các thiệt hại được bồi thường, mức bồi thường phải phù hợp với quy định của Luật TNBTCNN năm 2017.
Các nguyên tắc trên có vai trò hết sức quan trọng, góp phần đảm bảo bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các bên, định hướng cho quá trình thương lượng theo đúng các quy định của pháp luật.
– Về thành phần thương lượng, theo Luật TNBTCNN năm 2009, thành phần thương lượng gồm đại diện cơ quan có trách nhiệm bồi thường và người bị thiệt hại hoặc đại diện hợp pháp của họ. Trong trường hợp cần thiết, người thi hành công vụ gây ra thiệt hại được mời tham gia vào việc thương lượng[16].
Luật TNBTCNN năm 2017 quy định rõ hơn nữa về thành phần thương lượng[17]. Theo đó, Luật mới đã bổ sung thành phần thương lượng bắt buộc là đại diện cơ quan quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước; đối với yêu cầu bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự, thành phần thương lượng bắt buộc là Viện kiểm sát có thẩm quyền; trường hợp cần thiết thì có thể mời cơ quan tài chính cùng cấp tham gia.
– Về nội dung thương lượng: Khoản 5 điều 46 Luật TNBTCNN năm 2017 bổ sung quy định về nội dung thương lượng việc bồi thường, bao gồm:
+ Các loại thiệt hại được bồi thường;
+ Số tiền bồi thường;
+ Khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp khác (nếu có);
+ Phương thức chi trả tiền bồi thường;
+ Các nội dung khác có liên quan đến việc giải quyết yêu cầu bồi thường.
– Về các bước tiến hành thương lượng, Luật TNBTCNN năm 2009 không quy định cụ thể về trình tự thủ tục của buổi thương lượng, do đó mỗi cơ quan lại thực hiện một cách khác nhau. Luật TNBTCNN năm 2017 đã quy định cụ thể các bước tiến hành thương lượng tại khoản 6 điều 46.
Quy định về thành phần thương lượng, nội dung và các bước tiến hành thương lượng không chỉ hướng dẫn các cơ quan giải quyết bồi thường trong việc tiến hành thương lượng mà còn đảm bảo tính minh bạch, thống nhất trong quá trình thương lượng.
– Luật mới cũng bổ sung quy định về biên bản kết quả thương lượng. Quy định hướng xử lý trong trường hợp thương lượng thành và thương lượng không thành (khoản 7, 8 điều 46).
Thứ bảy, về Quyết định giải quyết bồi thường
Theo quy định cũ, thời hạn ra quyết định giải quyết bồi thường là 10 ngày kể từ ngày kết thúc việc thương lượng, Luật TNBTCNN năm 2017 đã sửa đổi thời hạn ra quyết định giải quyết bồi thường: Việc ra quyết định giải quyết bồi thường phải được thực hiện ngay sau khi có biên bản kết quả thương lượng thành và quyết định phải được trao tại buổi thương lượng.[18]
– Luật cũng dự liệu trường hợp người yêu cầu bồi thường không nhận quyết định giải quyết bồi thường và cách xử lý của cơ quan giải quyết bồi thường. Đồng thời quy định cụ thể về nội dung quyết định giải quyết bồi thường, hiệu lực của Quyết định giải quyết bồi thường.
Thứ tám, về hủy, sửa chữa, bổ sung quyết định giải quyết bồi thường; hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết yêu cầu bồi thường
Luật TNBTCNN năm 2017 bổ sung 04 Điều luật mới (từ Điều 48 đến Điều 51) quy định về hủy, sửa chữa, bổ sung quyết định giải quyết bồi thường, hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết yêu cầu bồi thường.
Luật TNBTCNN năm 2009 chưa có quy định về việc xử lý hậu quả pháp lý của việc ban hành Quyết định giải quyết bồi thường trái pháp luật hoặc các trường hợp khác dẫn đến việc giải quyết yêu cầu bồi thường buộc phải tạm dừng. Việc bổ sung các quy định về việc hoãn, tạm đình chỉ và đình chỉ việc giải quyết bồi thường là một quy định rất cần thiết và quan trọng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại, không làm ảnh hưởng đến hoạt động của cơ quan nhà nước. Khắc phục được tình trạng lúng túng trong giải quyết bồi thường do Luật TNBTNN năm 2009 không quy định việc hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết bồi thường[19].
2. Về thủ tục giải quyết bồi thường tại Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự và việc giải quyết yêu cầu bồi thường trong quá trình tố tụng hình sự, tố tụng hành chính tại Tòa án
Thứ nhất, về khởi kiện và thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường tại Tòa án
Điều 22 Luật TNBTNN 2009 chỉ quy định hai trường hợp khởi kiện:
+ Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày hết thời hạn ra quyết định giải quyết bồi thường quy định tại Điều 20 của Luật này mà cơ quan có trách nhiệm bồi thường không ra quyết định;
+ Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày người bị thiệt hại nhận được quyết định nhưng không đồng ý thì người bị thiệt hại có quyền khởi kiện ra Toà án có thẩm quyền theo quy định tại Điều 23 của Luật này để yêu cầu giải quyết bồi thường.
Để tạo bảo đảm tối đa quyền lợi của người dân, Điều 52 Luật TNBTCNN năm 2017 đã bổ sung 03 trường hợp người bị hại có quyền khởi kiện và quy định cụ thể về thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường tại Tòa án.
– Người yêu cầu bồi thường có quyền khởi kiện trong các trường hợp sau:
+ Trong thời hạn 03 năm kể từ ngày nhận được văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường, người yêu cầu bồi thường chưa yêu cầu cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại giải quyết yêu cầu bồi thường;
+ Trong thời hạn 03 năm kể từ ngày nhận được văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường, người yêu cầu bồi thường đã yêu cầu cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại giải quyết yêu cầu bồi thường, nhưng sau đó người đó rút đơn trước thời điểm cơ quan này tiến hành xác minh thiệt hại;
+ Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết bồi thường của cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại;
+ Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có biên bản kết quả thương lượng thành giữa cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại với người yêu cầu bồi thường mà cơ quan đó không ra quyết định giải quyết bồi thường;
+Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có biên bản kết quả thương lượng không thành giữa cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại với người yêu cầu bồi thường.
Luật TNBTCNN năm 2017 cũng quy định rõ trường hợp người yêu cầu bồi thường không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết yêu cầu bồi thường trong trường hợp quyết định giải quyết bồi thường quy định tại Điều 47 của Luật TNBTCNN năm 2017 đã có hiệu lực pháp luật.
Việc giải quyết bồi thường tại Tòa án được thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Trường hợp vụ việc đủ điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì thủ tục giải quyết bồi thường tại Tòa án được áp dụng theo thủ tục rút gọn.
Luật cũng bổ sung quy định về các trường hợp do sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan theo quy định của Bộ luật Dân sự làm cho người yêu cầu bồi thường không thể khởi kiện đúng thời hạn thì khoảng thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan đó không được tính vào thời hạn khởi kiện. Đồng thời quy định tư cách (là Bị đơn) của cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại khi tham gia tố tụng dân sự tại Tòa án[20].
Thứ hai, về thẩmquyềngiải quyết vụ án dân sự của Tòa án
Theo quy định của Luật TNBTCNN năm 2009, toà án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu bồi thường là Toà án nhân dân cấp huyện nơi cá nhân bị thiệt hại cư trú, làm việc, nơi tổ chức bị thiệt hại đặt trụ sở, nơi thiệt hại xảy ra theo sự lựa chọn của người bị thiệt hại hoặc trường hợp khác theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
Luật TNBTCNN năm 2017 quy định rõ hơn nữa thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp huyện và Tòa án nhân dân cấp tỉnh theo từng trường hợp cụ thể:
-Tòa án nhân dân cấp huyện nơi cư trú, làm việc của người yêu cầu bồi thường hoặc nơi đặt trụ sở của bị đơn theo lựa chọn của người yêu cầu bồi thường là Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm yêu cầu bồi thường trong trường hợp bị đơn là các cơ quan sau đây:
+ Cơ quan quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 33 của Luật này (Gồm Ủy ban nhân dân cấp huyện và Ủy ban nhân dân cấp xã là cơ quan giải quyết bồi thường trong trường hợp người thi hành công vụ gây thiệt hại thuộc thẩm quyền quản lý trực tiếp của mình);
+ Cơ quan quy định tại các khoản 5, 6 và 7 Điều 33 của Luật này ở cấp huyện và cấp xã (Gồm các cơ quan: Cơ quan có thẩm quyền cung cấp thông tin theo quy định của Luật Tiếp cận thông tin; Cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp cần thiết để bảo vệ người tố cáo theo quy định của Luật Tố cáo; Cơ quan ra quyết định xử lý kỷ luật buộc thôi việc đối với công chức);
+ Cơ quan tiến hành tố tụng cấp huyện, cơ quan thi hành án cấp huyện.
– Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi cư trú, làm việc của người yêu cầu bồi thường hoặc nơi đặt trụ sở của cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại theo lựa chọn của người yêu cầu bồi thường là Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm yêu cầu bồi thường, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này[21].
Thứ ba, về thi hành bản án, quyết định của Tòa án về giải quyết yêu cầu bồi thường
So với Luật TNBTCNN năm 2009, Luật TNBTCNN năm 2017 đã bỏ quy định về yêu cầu thi hành án dân sự đối với bản án, quyết định của Tòa án về giải quyết yêu cầu bồi thường tại khoản 5 Điều 54 của Luật TNBTCNN năm 2009. Đồng thời, quy định rõ trách nhiệm của cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại có trách nhiệm chi trả tiền bồi thường cho người yêu cầu bồi thường theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án về giải quyết yêu cầu bồi thường cũng như trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, người có liên quan phải thực hiện việc khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp khác cho người bị thiệt hại theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án về giải quyết yêu cầu bồi thường.
* Đối với yêu cầu bồi thường trong quá trình tố tụng hình sự, tố tụng hành chính tại Tòa án
Luật TNBTCNN năm 2017 đã bổ sung 01 Điều luật mới (Điều 55) quy định riêng đối với việc giải quyết yêu cầu bồi thường trong quá trình tố tụng hình sự, tố tụng hành chính tại Tòa án. Theo đó việc giải quyết vụ án hình sự, vụ án hành chính có nội dung yêu cầu bồi thường được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự, tố tụng hành chính. Thời điểm chấp nhận yêu cầu bồi thường trong quá trình tố tụng hình sự, tố tụng hành chính là thời điểm Tòa án có thẩm quyền thụ lý yêu cầu bồi thường.
Việc xác định thiệt hại được bồi thường trong quá trình tố tụng hình sự, tố tụng hành chính được thực hiện theo quy định của Luật này sau khi Tòa án có thẩm quyền xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây thiệt hại thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
Luật cũng quy định rõ những nội dung cần phải có của bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp giải quyết yêu cầu bồi thường trong quá trình tố tụng hình sự, tố tụng hành chính.
Trong trường hợp người yêu cầu bồi thường không đồng ý với nội dung giải quyết bồi thường trong bản án, quyết định của Tòa án hoặc bản án, quyết định của Tòa án không có nội dung giải quyết bồi thường thì chỉ được tiếp tục thực hiện quyền yêu cầu bồi thường theo thủ tục tố tụng. Luật cũng quy định rõ Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành Điều luật này.
3. Về thủ tục phục hồi danh dự
Luật TNBTCNN năm 2017 đã sửa đổi toàn diện quy định về khôi phục danh dự cho người bị thiệt hại (từ Điều 55 đến Điều 57) theo hướng quy định cụ thể hình thức tiến hành phục hồi danh dự, thủ tục, thời hạn thực hiện tổ chức trực tiếp xin lỗi, cải chính công khai và đăng báo xin lỗi, cải chính công khai cụ thể:
Thứ nhất, về đối tượng phục hồi danh dự
Theo quy định tại khoản 1 Điều 51 Luật TNBTCNN năm 2009 quy định: “Người bị thiệt hại quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 26 của Luật này hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền yêu cầu khôi phục danh dự trong thời hạn 03 tháng, kể từ ngày quyết định giải quyết bồi thường có hiệu lực pháp luật.”
Phân tích khoản 1,2 và 3 Điều 26 của Luật TNBTCNN năm 2009 thì việc phục hồi danh dự chỉ được áp dụng đối với các trường hợp người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự. Luật TNBTCNN năm 2017 đã mở rộng đối tượng được phục hồi danh dự, bao gồm: người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự và các trường hợp bị buộc thôi việc trái pháp luật, bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc trái pháp luật[22].
Việc mở rộng đối tượng được phục hồi danh dự là rất hợp lý. Trên thực tế, đối với những người bị hại trong các trường hợp bị buộc thôi việc trái pháp luật, bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc trái pháp luật, họ cũng phải chịu rất nhiều hậu quả to lớn, không chỉ về vật chất mà cả tinh thần, do đó việc phục hồi danh dự đối với các đối tượng này là vô cùng cần thiết.
Thứ hai,về hình thức phục hồi danh dự
Luật TNBTCNN năm 2017 quy định rõ các hình thức phục hồi danh dự tương ứng với từng đối tượng được bồi thường, cụ thể:
Việc phục hồi danh dự đối với người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng Hình sự được thực hiện bằng các hình thức sau đây:
+ Trực tiếp xin lỗi và cải chính công khai tại nơi cư trú trong trường hợp người bị thiệt hại là cá nhân hoặc tại nơi đặt trụ sở trong trường hợp người bị thiệt hại là pháp nhân thương mại;
+ Đăng báo xin lỗi và cải chính công khai.
Việc phục hồi danh dự đối với cá nhân là người bị thiệt hại trong trường hợp bị buộc thôi việc trái pháp luật, bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc được thực hiện bằng hình thức đăng báo xin lỗi và cải chính công khai.
Luật TNBTCNN năm 2009 cũng có quy định về hình thức thực hiện việc xin lỗi, cải chính công khai tại khoản 3 Điều 51 Luật TNBTCNN 2009, tuy nhiên chưa thực sự cụ thể. So với quy định cũ, quy định mới đã có những tiến bộ rõ rệt, cụ thể hơn về các hình thức phục hồi danh dự cho người bị hại. Luật TNBTCNN năm 2017 đã cụ thể hóa từng đối tượng bồi thường, đối với cá nhân và pháp nhân thương mại trong hai lĩnh vực bồi thường: Tố tụng hình sự và đối với người bị thiệt hại trong trường hợp bị buộc thôi việc trái pháp luật, bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Thứ ba, về chủ động phục hồi danh dự
Theo quy định tại khoản 1 Điều 51 Luật TNBTCNN năm 2009, việc khôi phục danh dự được thực hiện theo yêu cầu của người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại và được yêu cầu trong thời hạn 03 tháng, kể từ ngày quyết định giải quyết bồi thường có hiệu lực pháp luật.
Luật TNBTCNN năm 2017 đã quy định rất rõ về việc chủ động phục hồi danh dự cho người bị thiệt hại. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường hoặc kể từ ngày có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại có trách nhiệm thông báo bằng văn bản cho người bị thiệt hại về việc Nhà nước tổ chức thực hiện phục hồi danh dự.
Điều 30 Hiến pháp năm 2013 quy định:“Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật”.
Trong quá trình dự thảo xây dựng Luật TNBTCNN năm 2017, Đại biểu Lưu Bình Nhưỡng (tỉnh Bến Tre) cho rằng: “Bất kỳ ai phạm lỗi với người khác cũng đều phải xin lỗi trước khi bị yêu cầu”, và “Nhà nước phục vụ là Nhà nước phải chủ động thực hiện quyền của người dân chứ không phải đợi đến lúc người dân đòi hỏi.”[23]. Do đó, việc chuyển từ quy định phục hồi danh dự theo yêu cầu sang chủ động phục hồi danh dự là vô cùng hợp tình, hợp lý, thể hiện đúng tinh thần của hoạt động phục hồi danh dự, phát huy đầy đủ quyền Hiến định của người dân trong các trường hợp bồi thường nhà nước.
Luật mới cũng quy định các trường hợp phát sinh khi người bị thiệt hại đồng ý, không đồng ý với nội dung trong thông báo, người bị hại đề nghị chưa thực hiện phục hồi danh dự, từ chối quyền được phục hồi danh dự và trường hợp người bị thiệt hại chết (khoản 2, 3, 4, 5 Điều 57).
Thứ tư, về trực tiếp xin lỗi và cải chính công khai
Luật TNBTCNN năm 2017 đã bổ sung 01 Điều mới (Điều 58) quy định về trực tiếp xin lỗi và cải chính công khai, cụ thể như sau:
+ Quy định về thời hạn thực hiện là 15 ngày thay cho trước đây là 30 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản đồng ý hoặc yêu cầu của người bị thiệt hại về việc phục hồi danh dự;
+ Quy định rõ trách nhiệm của cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại trong việc tổ chức trực tiếp xin lỗi và cải chính công khai (Thủ trưởng cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại có trách nhiệm tổ chức trực tiếp xin lỗi và cải chính công khai);
+ Quy định rõ về thành phần tham gia buổi trực tiếp xin lỗi và cải chính công khai bao gồm đại diện lãnh đạo các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan.
Thứ năm, về đăng báo xin lỗi và cải chính công khai
Luật TNBTCNN năm 2017 bổ sung 01 Điều luật mới (Điều 59) quy định về đăng báo xin lỗi và cải chính công khai .Trong đó, quy định về trách nhiệm của cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại trong việc đăng báo xin lỗi và cải chính công khai, đồng thời quy định cụ thể về phương thức thực hiện việc đăng tin trên báo xin lỗi và cải chính công khai.
Trước đây Luật TNBTCNN năm 2009 quy định việc xin lỗi, cải chính công khai được thực hiện bằng các hình thức:
+ Trực tiếp xin lỗi, cải chính công khai tại nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người bị thiệt hại có sự tham dự của đại diện chính quyền địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú, đại diện của cơ quan nơi người bị thiệt hại làm việc, đại diện của một tổ chức chính trị – xã hội mà người bị thiệt hại là thành viên;
+ Đăng trên một tờ báo trung ương và một tờ báo địa phương trong ba số liên tiếp theo yêu cầu của người bị thiệt hại hoặc đại diện hợp pháp của họ[24].”
Luật TNBTCNN năm 2009 cũng không quy định cụ thể trình tự, thủ tục phục hồi danh dự cho người bị thiệt hại dẫn đến việc tổ chức xin lỗi, cải chính công khai được thực hiện không thống nhất, gây bức xúc cho người bị thiệt hại và dư luận xã hội[25]. Nhằm khắc phục tình trạng trên, nhanh chóng khắc phục một phần tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại[26], Luật TNBTCNN năm 2017 đã có quy định cụ thể và rõ ràng hơn về cách thức thực hiện xin lỗi và cải chính công khai trên báo đối với từng đối tượng và từng trường hợp.
+ Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đồng ý hoặc yêu cầu của người bị thiệt hại về việc phục hồi danh dự quy định tại Điều 41 hoặc Điều 57 của Luật này, cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại ở trung ương có trách nhiệm đăng báo xin lỗi và cải chính công khai trên 01 tờ báo trung ương và 01 tờ báo địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú trong trường hợp người bị thiệt hại là cá nhân hoặc nơi đặt trụ sở trong trường hợp người bị thiệt hại là pháp nhân thương mại trong 03 số liên tiếp; đăng tải nội dung xin lỗi và cải chính công khai trên Cổng thông tin điện tử (nếu có) của cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại;
+ Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đồng ý hoặc yêu cầu của người bị thiệt hại về việc phục hồi danh dự quy định tại Điều 41 hoặc Điều 57 của Luật này, cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại ở địa phương có trách nhiệm đăng báo xin lỗi và cải chính công khai trên 01 tờ báo cấp tỉnh tại địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú trong trường hợp người bị thiệt hại là cá nhân hoặc nơi đặt trụ sở trong trường hợp người bị thiệt hại là pháp nhân thương mại trong 03 số liên tiếp;
Luật cũng bổ sung quy định: Ngay sau khi đăng báo xin lỗi và cải chính công khai, cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại có trách nhiệm gửi tờ báo đó tới người bị thiệt hại và Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người bị thiệt hại cư trú trong trường hợp người bị thiệt hại là cá nhân hoặc nơi đặt trụ sở trong trường hợp người bị thiệt hại là pháp nhân thương mại để niêm yết công khai tại trụ sở.
Với những quy định rõ ràng như trên, Luật TNBTCNN năm 2017 đã có những đổi mới rất lớn về trình tự thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường của Nhà nước. Khắc phục được những bất cập đang diễn ra trong thực tiễn, đồng thời tạo một cơ sở pháp lý thống nhất chung cho các cơ quan có trách nhiệm giải quyết bồi thường thực hiện. Đảm bảo tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của người dân trong việc giải quyết các vụ việc bồi thường.
[1] Báo cáo số 181/BC-BTP ngày 15/7/2016 của Bộ Tư pháp tổng kết 6 năm thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường Nhà nước, trang 25</p> <p>[2] Tờ trình số 290/TTr-CP ngày 01/09/2016 của Chính phủ về Dự án Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (sửa đổi).</p> <p><strong>[3]</strong> Lê Thái Phương, Những điểm mới của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, http://btnn.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=186</p> <p>[4] khoản 1 điều 41 Luật TNBTCNN năm 2017</p> <p>[5] Khoản 4 Điều 41 Luật TNBTCNN năm 2017</p> <p>[6] Thanh Tú, Nâng cao trách nhiệm trong quản lý người thi hành công vụ của cơ quan nhà nước, http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/TT_TINLAPPHAP/View_Detail.aspx?ItemID=2642, ngày truy cập 27/7/2017</p> <p>[7] Khoản 2 Điều 42 Luật TNBTCNN năm 2017</p> <p>[8] Khoản 2 Điều 43 Luật TNBTCNN năm 2017</p> <p>[9] Khoản 1 Điều 44 Luật TNBTNN năm 2017</p> <p>[10] Điểm a, Khoản 2, Điều 44 Luật TNBTNN năm 2017</p> <p>[11] Bộ Tư pháp, Báo cáo số 181/BC-BTP, mục 2.5, trang 22</p> <p>[12] Bộ Tư pháp, Báo cáo số 181/BC-BTP, mục 2.5, trang 22</p> <p>[13] khoản 3 điều 45 Luật TNBTNN năm 2017</p> <p>[14] khoản 4 Điều 45 Luật TNBTNN năm 2017</p> <p>[15] khoản 2 điều 46 Luật TNBTNN năm 2017</p> <p>[16] Khoản 2 Điều 19 Luật TNBTCNN năm 2009</p> <p>[17] Khoản 3 Điều 46 Luật TNBTNN năm 2017</p> <p>[18] Khoản 1, Điều 47 Luật TNBTCNN năm 2017</p> <p>[19] Hoàng Thư, Xác lập cơ chế giải quyết bồi thường kịp thời, dứt điểm, http://baophapluat.vn/tu-phap/xac-lap-co-che-giai-quyet-boi-thuong-kip-thoi-dut-diem-291095.html, ngày truy cập: 28/7/2017</p> <p>[20] Điều 52 Luật TNBTCNN năm 2017</p> <p>[21] Điều 53 Luật TNBTNN năm 2017</p> <p>[22] khoản 1, 2 Điều 56 Luật TNBTCNN năm 2017</p> <p>[23]Bảo Hân, Tổ chức xin lỗi công khai: Chỉ khi người bị oan có yêu cầu, http://hanoimoi.com.vn/Tin-tuc/Xa-hoi/870190/to-chuc-xin-loi-cong-khai-chi-khi-nguoi-bi-oan-co-yeu-cau, ngày đăng 31/05/2017, ngày truy cập 24/7/2017</p> <p>[24] khoản 3 Điều 51 Luật TNBTCNN năm 2009</p> <p>[25] Minh Phương, Phục hồi danh dự cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và đề xuất, kiến nghị,http://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/dien-dan-cong-tac-tu-phap.aspx?ItemID=164, ngày truy cập 24/7/2017</p> <p>[26] Bộ Tư Pháp, Báo cáo số 181/BC-BTP, tlđd ,  mục 3.2</p> <p><strong>SOURCE: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ BỘ TƯ PHÁP</strong></p> <p><strong>Trích dẫn từ: www.moj.gov.vn</strong>