THỎA THUẬN BÁN KÈM TRONG HỢP ĐỒNG CHUYỂN QUYỀN SỬ DỤNG QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ DƯỚI GÓC NHÌN PHÁP LUẬT CẠNH TRANH

THỎA THUẬN BÁN KÈM TRONG HỢP ĐỒNG CHUYỂN QUYỀN SỬ DỤNG QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ DƯỚI GÓC NHÌN PHÁP LUẬT CẠNH TRANH

BÙI THỊ HẰNG NGA Khoa Luật kinh tế, Đại học Kinh tế – luật, ĐH Quốc gia TPHCM

1. Đặt vấn đề

Dưới góc độ pháp luật sở hữu trí tuệ (SHTT), việc đặt ra các quy định về bán kèm đôi khi là quy định cần thiết để quyết định xem bên chuyển giao có chấp nhận chuyển giao hay không chuyển giao các đối tượng SHTT (sở hữu công nghiệp). Bởi lẽ, hành vi bán kèm sẽ giúp đảm bảo chất lượng sản phẩm chính thông qua việc đảm bảo chất lượng của nguyên vật liệu hoặc đảm bảo chất lượng thống nhất của dây chuyền, thiết bị thông qua đảm bảo chất lượng của từng thiết bị trong dây chuyền. Bên cạnh đó, thỏa thuận bán kèm hoặc chuyển giao cả gói cũng giúp cho chủ sở hữu quyền công nghiệp có thể gia tăng lợi nhuận từ chính các phát minh, sáng tạo của mình. Điều đó giúp họ có động lực tốt hơn trong hoạt động đầu tư cho hoạt động nghiên cứu, sáng tạo.

Tuy nhiên, dưới góc độ của pháp luật cạnh tranh thì hành vi bán kèm có thể được xem là hành vi gây hạn chế cạnh tranh bởi (i) nó có thể hạn chế sự lựa chọn của người mua (người nhận chuyển giao) đối với sản phẩm được bán kèm (hay nói cách khác trong trường hợp này họ không có quyền quyết định đối với giá cả và chất lượng của sản phẩm được bán kèm đó); (ii) hành vi này sẽ làm cản trở sự gia nhập thị trường cũng như có thể loại bỏ sự cạnh tranh của các chủ thể đối với thị trường sản phẩm được bán kèm. Bởi vì, lúc này các giao dịch đối với sản phẩm đó không còn được thực hiện trên cơ sở cung cầu.

Rõ ràng với cách tiếp cận khác biệt như trên thì một thỏa thuận bán kèm có thể bị xem là thỏa thuận gây hạn chế cạnh tranh và mặc nhiên sẽ bị ngăn cấm, nhưng đôi lúc thỏa thuận ấy lại là đương nhiên và cần thiết cho sự phát triển của các doanh nghiệp nói riêng và quyền lợi của người tiêu dùng nói chung dưới góc độ tiếp cận của pháp luật về SHTT. Bởi lẽ, sự hợp tác giữa các nhà kinh doanh là điều tất yếu, cần thiết cho sự ổn định và phát triển của từng doanh nghiệp. Quyền tự do kinh doanh bao hàm trong nó cả quyền được liên kết, hợp tác phát triển. Sự thỏa thuận cho dù có làm giảm cạnh tranh giữa những bên tham gia, nhưng ở giới hạn nào đó nó lại là cơ sở để hình thành những liên kết kinh tế để thúc đẩy sự phát triển lành mạnh, hợp lực để nâng cao sức cạnh tranh trên một thị trường rộng lớn hơn. Những lý lẽ đưa ra để bảo hộ cho các thỏa thuận chủ yếu dựa vào những tác động tích cực của thỏa thuận đối với sự phát triển và đối với thị trường, đó là:

– Các thỏa thuận cạnh tranh có khả năng nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhỏ và từ đó nâng cao mức độ cạnh tranh của thị trường.

– Sự hợp tác bằng các thỏa thuận giữa các đối thủ cạnh tranh với nhau có thể nâng cao năng lực cạnh tranh cho từng thành viên.

– Việc hợp tác, hỗ trợ giữa các doanh nghiệp về thông tin thị trường có thể làm cho cuộc cạnh tranh trở nên lành mạnh, minh bạch và làm cho hoạt động kinh doanh được thuận lợi hơn.

Với những lý do trên, pháp luật cạnh tranh của hầu hết các quốc gia đều đặt ra những ngoại lệ cho các thỏa thuận trong kinh doanh của các doanh nghiệp và thỏa thuận bán kèm cũng là một trong các trường hợp đó.

Tuy nhiên, việc phân biệt giữa thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và thỏa thuận ủng hộ cạnh tranh để cấm hoặc miễn trừ không phải là việc đơn giản. Do vậy, đối với từng thỏa thuận cụ thể, cơ quan quản lý nhà nước cần thu thập các bằng chứng và phân tích kỹ lưỡng trước khi đưa ra quyết định cấm hoặc miễn trừ.

2. Quy định của pháp luật một số nước và của Việt Nam về thỏa thuận bán kèm

2.1 Quy định của pháp luật Mỹ và châu Âu

Trước đây, trong hệ thống pháp luật của Mỹ, hành vi bán kèm có thể bị Tòa án tối cao Mỹ xem là vi phạm mặc nhiên (Per se) nếu như, chủ thể thực hiện hành vi có vị trí thống lĩnh trên thị trường hàng hóa bán kèm. Hay nói cách khác, hành vi bán kèm bị xem là hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh và mặc nhiên bị cấm theo quy định tại Điều 2 Đạo luật Sherman[1].

Tuy nhiên, hiện nay quan điểm của Tòa án tối cao Mỹ cho rằng, nếu chỉ dựa vào sức mạnh thị trường để kết luận rằng thỏa thuận bán kèm gây hạn chế cạnh tranh là không đầy đủ mà cần phải chứng minh những tác động hạn chế cạnh tranh của thỏa thuận đó dưới nhiều khía cạnh khác nhau[2]. Bởi lẽ, trên thực tế, ngoài nguy cơ ảnh hưởng xấu đến môi trường cạnh tranh thì thỏa thuận bán kèm cũng có những tác động tích cực đến cạnh tranh thông qua các dạng thức sau:

– Đó là một trong những cách thức để doanh nghiệp thực hiện hành vi phân biệt giá nhằm tăng thêm lợi ích cho khách hàng. Theo đó, thông qua việc định giá sản phẩm được bán kèm thấp (thậm chí bằng 0) như một cách dành cho những khách hàng thân thiết, tiềm năng một lợi ích nhất định khi họ chọn mua sản phẩm chính của doanh nghiệp.

– Thông qua hành vi bán kèm sẽ tạo ra cơ hội gia nhập thị trường cho sản phẩm được bán kèm đặc biệt là trong trường hợp thị trường gia nhập sản phẩm được bán kèm có rào cản lớn. Đó chính là cơ chế để giúp các đối thủ cạnh tranh theo chiều dọc dễ dàng gia nhập thị trường hơn thông qua hành vi bán kèm sản phẩm của mình với một sản phẩm nổi tiếng đã được người tiêu dùng chấp nhận.

– Bán kèm cũng là một trong những phương thức hữu hiệu để đảm bảo chất lượng của hàng hóa, dịch vụ bằng cách đảm bảo những yếu tố nhỏ nhất trong khâu nguyên liệu hoặc công nghệ tốt nhất trong khâu cung ứng dịch vụ. Do đó, đối với những hoạt động có yêu cầu cao đối với sự đồng bộ để đảm bảo chất lượng hàng hóa hoặc dịch vụ cung ứng (như hình thức nhượng quyền thương mại) thì bán kèm lại là hành vi mang lại lợi ích cho tất cả các bên, đặc biệt là khách hàng khi họ được tiếp cận các sản phẩm, dịch vụ ở nhiều nơi khác nhau với một mức giá và chất lượng đồng nhất[3].

– Dưới góc độ đảm bảo quyền cho chủ sở hữu quyền SHTT, hành vi bán kèm là cơ sở cho phép chủ sở hữu quyền SHTT gia tăng lợi nhuận dựa trên các phát minh, sáng chế của mình trong trường hợp đó là một dây chuyền công nghệ cần sự đồng bộ và thống nhất.

Vì vậy, hiện nay, thỏa thuận bán kèm được Tòa án tối cao Mỹ xem xét theo nguyên tắc cân bằng hợp lý (The Rule of reason) thay vì nguyên tắc vi phạm mặc nhiên (Per se). Theo đó, một thỏa thuận bán kèm sẽ bị xem là vi phạm khi nó thỏa mãn cả bốn tiêu chí sau đây:

– Hai sản phẩm đó không có liên quan đến nhau;

– Hợp đồng bán có quy định: một sản phẩm (sản phẩm chính) chỉ được bán khi mua một sản phẩm khác (sản phẩm kèm theo);

– Chủ thể thực hiện hành vi có đủ sức mạnh kinh tế để bắt buộc bên mua phải chấp nhận thỏa thuận đó và;

– Gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động thương mại giữa các tiểu bang[4].

Quan điểm này một lần nữa được khẳng định trong án lệ Eastman Kodak[5]; theo đó, Kodak là chủ thể chiếm 80-95% thị phần trên thị trường phụ tùng thay thế cho máy in, máy photocopy chỉ đồng ý cung cấp các phụ tùng thay thế kèm theo cho những khách hàng mua máy in/photocopy của mình đã loại bỏ sức cạnh tranh của chủ thể khác (ISO). Điều đó đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động thương mại cũng như môi trường cạnh tranh. Do đó, Tòa án tối cao đã kết luận hành vi của Kodak là vi phạm pháp luật khi đã thỏa mãn đủ 4 tiêu chí nói trên bất chấp các viện dẫn về tính thống nhất của công nghệ được đưa ra từ phía Kodak.

Tương tự như quy định của pháp luật của Mỹ, tại châu Âu, thỏa thuận bán kèm sẽ bị ngăn cấm theo quy định tại Điều 102 TFEU (Hiệp định về hoạt động của Liên minh châu Âu)[6] khi thỏa mãn 4 tiêu chí:

– Sản phẩm chính và sản phẩm được bán kèm là hai sản phẩm tách rời, độc lập với nhau;

– Chủ thể thực hiện có vị trí thống lĩnh trên thị trường;

– Khách hàng bị tước bỏ quyền lựa chọn mua hay không mua sản phẩm kèm theo sản phẩm chính;

– Hành vi đó gây cản trở cạnh tranh[7].

Quan điểm này được thể hiện rõ trong vụ việc của Microsoft. Theo đó, Microsoft với tư cách là doanh nghiệp có vị trí độc quyền trên thị trường hệ điều hành tương thích với thiết bị của Intel (chiếm 95% thị phần hoặc trên 80% thị phần nếu các hệ điều hành của MAC được tính đến[8]) đã tích hợp phần mềm giải trí Windows Media Player vào hệ điều hành Windows đã buộc người tiêu dùng phải mua kèm sản phẩm đi cùng với hệ điều hành Windows.

Trước hành vi đó của Microsoft, ngày 17/9/2007, Tòa sơ thẩm Liên minh châu Âu (Tòa) tuyên phạt một khoản tiền kỷ lục lên tới 613 triệu đô la đối với tập đoàn Microsoft do đã vi phạm luật chống độc quyền của EU với các lập luận: Hệ điều hành Windows là hệ điều hành phổ biến được trang bị cho hầu hết các máy tính cá nhân; Phần mềm Windows Media Player là một phần mềm hỗ trợ xem phim, nghe nhạc thông qua Internet; Phần mềm Windows Media Player không liên quan đến mã nguồn Windows để liên kết với nhau; Hệ điều hành Windows của Microsoft được trang bị cho khoảng 95% máy tính cá nhân trên thế giới; Hành vi này tác động đến môi trường cạnh tranh tại Liên minh châu Âu, Norway, Iceland và Liechtenstein[9].

Theo kết luận của Ủy ban châu Âu (EC), từ năm 2004, Microsoft đã thực hiện hai hành vi vi phạm luật chống độc quyền của EU: lạm dụng vị trí thống lĩnh của mình trên thị trường hệ điều hành máy tính cá nhân để thâm nhập thị trường các sản phẩm dành cho máy chủ và bán kèm phần mềm Windows Media Player cùng với hệ điều hành Windows nhằm hạn chế sự tiếp cận khách hàng của các đối thủ cạnh tranh.

Tại phiên xét xử lần này, Tòa kết luận, việc tích hợp phần mềm giải trí Windows Media Player vào hệ điều hành Windows đã buộc người tiêu dùng phải mua kèm sản phẩm đi cùng với hệ điều hành Windows. Do đó, dù không tính phí riêng biệt đối với phần mềm Windows Media Player hay người tiêu dùng không bị buộc phải sử dụng sản phẩm bán kèm này, nhưng hành vi của Microsoft rõ ràng đã gây thiệt hại cho các đối thủ cạnh tranh và người tiêu dùng. Đồng thời, ngoài việc phải nộp khoản tiền phạt kỷ lục kể trên, Microsoft còn phải thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả bao gồm: loại bỏ việc tích hợp phần mềm Windows Media Player ra khỏi hệ điều hành Windows và chia sẻ với các đối thủ cạnh tranh mã nguồn về giao thức giữa các phần mềm máy chủ[10].

Tuy nhiên, Điều 82(d) cũng đề cập đến một ngoại lệ cho thỏa thuận bán kèm dù chủ thể thực hiện hành vi có vị trí thống lĩnh trên thị trường: “Trong trường hợp sản phẩm chính và sản phẩm kèm theo là các yếu tố kết hợp của một sản phẩm hoàn chỉnh (vật đồng bộ) thì hành vi bán kèm ấy sẽ không bị xem là vi phạm Điều 82(d) giống như việc bán dây giày kèm theo việc bán giày (đối với loại giày cột dây), bởi lẽ trong trường hợp này thì mọi người tiêu dùng đều nhận thấy rằng giày của mình chỉ thật sự hoàn chỉnh nếu có dây giày. Do đó, người bán giày luôn bán kèm dây giày cho các đôi giày của mình[11]”.

Điều đó cho thấy, tính liên quan giữa sản phẩm chính và sản phẩm kèm theo là một trong những khía cạnh quan trọng để xem xét thỏa thuận bán kèm có phải là hành vi vi phạm pháp luật hay không. Hay nói cách khác, cho dù chủ thể thực hiện hành vi có vị trí độc quyền trên thị trường hàng hóa liên quan nhưng sản phẩm chính và sản phẩm kèm theo là các yếu tố không thể tách rời của một sản phẩm đồng bộ hoặc của một dây chuyền thiết bị thì hành vi bán kèm đó lại là hợp pháp và cần được tôn trọng.

Lập luận này được khẳng định thông qua án lệ Kentucky Fried Chicken v Diversified Packing, khi Kentucky (KFC) chỉ đồng ý chuyển giao bí quyết và các quyền SHTT khác thuộc quyền sở hữu của mình thông qua hợp đồng nhượng quyền với yêu cầu bên nhận quyền phải mua các thiết bị và nguyên liệu từ KFC hay từ các nhà cung cấp khác được KFC chấp thuận bằng văn bản nếu thỏa mãn những yêu cầu về chất lượng mà KFC công bố, và việc chấp thuận như vậy không thể bị hủy bỏ một cách bất hợp lý, thì ràng buộc như vậy lại được Tòa án phúc thẩm liên bang Mỹ cho là cần thiết để đảm bảo tính thống nhất của hệ thống nhượng quyền cũng như tính đồng bộ của dây chuyền thiết bị và chất lượng hàng hóa nên thỏa thuận bán kèm này không vi phạm pháp luật cạnh tranh[12].

Tóm lại, trong hệ thống pháp luật của Mỹ và của châu Âu, điều khoản bán kèm sẽ được xem xét dựa trên nguyên tắc hợp lý nhằm cân bằng lợi ích của các bên liên quan. Theo đó, một thỏa thuận bán kèm chỉ bị ngăn cấm khi có các bằng chứng chứng minh rằng thỏa thuận ấy sẽ gây hạn chế cạnh tranh và tác động tiêu cực đến lợi ích của người tiêu dùng. Tính hạn chế cạnh tranh sẽ được xem xét dưới các khía cạnh khác nhau: thị phần của chủ thể trên thị trường sản phẩm chính và sản phẩm bán kèm, tính liên quan giữa sản phẩm chính và sản phẩm bán kèm…

2.2 Quy định của pháp luật Việt Nam

Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, thỏa thuận bán kèm (chuyển giao cả gói) được điều chỉnh bởi cả Luật SHTT năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và Luật Cạnh tranh năm 2004. Tuy nhiên, do cách tiếp cận khác nhau cùng với tính liên kết của hai văn bản pháp luật này không rõ ràng nên việc xem xét, đánh giá về một thỏa thuận bán kèm vẫn còn nhiều điểm chưa thống nhất.

Theo quy định của Luật SHTT, “Buộc bên được chuyển quyền phải mua toàn bộ hoặc một tỷ lệ nhất định các nguyên liệu, linh kiện hoặc thiết bị của bên chuyển quyền hoặc của bên thứ ba do bên chuyển quyền chỉ định mà không nhằm mục đích bảo đảm chất lượng hàng hoá, dịch vụ do bên được chuyển quyền sản xuất hoặc cung cấp;

3. Các điều khoản trong hợp đồng thuộc các trường hợp quy định ở trên mặc nhiên bị vô hiệu”[13].

Như vậy, thỏa thuận bán kèm trong hợp đồng chuyển giao quyền SHTT là thỏa thuận cần thiết và bên chuyển giao có quyền ghi nhận nếu nó nhằm mục đích đảm bảo chất lượng hàng hóa, dịch vụ. Luật SHTT chỉ ngăn cấm nếu bên chuyển quyền buộc bên được chuyển quyền phải mua toàn bộ hoặc một tỷ lệ nhất định các nguyên liệu, linh kiện hoặc thiết bị của bên chuyển quyền hoặc của bên thứ ba do bên chuyển quyền chỉ định mà không nhằm mục đích bảo đảm chất lượng hàng hoá, dịch vụ do bên được chuyển quyền sản xuất hoặc cung cấp[14].

Tuy nhiên, theo quy định của Luật Cạnh tranh năm 2004, điều khoản bán kèm này được xem là thỏa thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác (bên được chuyển quyền) điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, dịch vụ hoặc buộc các doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng theo quy định tại khoản 5 Điều 8. Cho nên, trường hợp thị phần của các bên chuyển quyền và bên nhận chuyển quyền từ 30% trở lên thì thỏa thuận này sẽ mặc nhiên bị cấm theo khoản 2 Điều 9 Luật Cạnh tranh, trừ trường hợp được miễn trừ khi có mục đích hợp lý hóa mô hình kinh doanh (điểm a khoản 1 Điều 10), và/ hoặc thúc đẩy việc áp dụng thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ thuật của chủng loại sản phẩm (điểm c khoản 1 Điều 10). Như vậy, với quy định tại Điều 9 và Điều 10 Luật Cạnh tranh năm 2004 sẽ dẫn đến tình huống:

Một là, thỏa thuận bán kèm (chuyển giao cả gói) sẽ mặc nhiên bị ngăn cấm, bỏ qua tính hợp lý và cần thiết để đảm bảo sự thống nhất, hiệu quả của công nghệ dưới góc độ quyền SHTT khi thị phần của các bên từ 30% trở lên (nếu không chứng minh được các điều kiện miễn trừ), điều này sẽ tác động tiêu cực đến việc thực thi quyền SHTT của bên chuyển giao vì nó có thể phá vỡ tính đồng bộ của dây chuyền, công nghệ chuyển giao.

Hai là, bên chuyển giao vẫn sẽ áp đặt các điều khoản bán kèm (cho dù áp đặt đó là bất hợp lý) ngay cả trong trường hợp bên chuyển giao có khả năng chi phối thị trường (thị phần từ 30% trở lên) mà không bị xem là vi phạm pháp luật và phải gánh chịu các chế tài theo quy định của Luật Cạnh tranh. Bởi lẽ, lúc này bên chuyển giao sẽ viện dẫn điểm a, c khoản 1 Điều 10 Luật Cạnh tranh để biện minh cho những hạn chế, áp đặt đó. Bên cạnh đó, việc chứng minh thỏa thuận đó vi phạm Điều 144 Luật SHTT bởi tiêu chí “không nhằm mục đích bảo đảm chất lượng hàng hoá, dịch vụ do bên được chuyển quyền sản xuất hoặc cung cấp” không phải là việc dễ dàng. Hay nói cách khác, trong trường hợp này, các thỏa thuận bán kèm trong hợp đồng chuyển giao công nghệ sẽ được chấp nhận ngay cả trường hợp nó gây cản trở, hạn chế cạnh tranh.

Ví dụ, trong hoạt động chuyển giao bí quyết, công nghệ sản xuất (nhượng quyền thương mại) của hệ thống cà phê Trung Nguyên thì việc Công ty cà phê Trung Nguyên buộc các cửa hàng nhận quyền phải mua cà phê của công ty chế biến và pha bán tại các cửa hàng là cần thiết, liên quan đến hợp đồng. Tuy nhiên, giả sử Trung Nguyên khi nhượng quyền, công ty này buộc các bên nhận quyền chỉ được phép sử dụng đường cát trắng nhãn hiệu Biên Hòa để pha cà phê thì ràng buộc đó có liên quan đến hợp đồng hay không? Do vậy, khái niệm “phù hợp với hệ thống kinh doanh do bên nhượng quyền quy định” có nội hàm khác biệt so với khái niệm “nhằm mục đích bảo đảm chất lượng hàng hoá, dịch vụ do bên được chuyển quyền sản xuất hoặc cung cấp”. Chính sự không rõ ràng đó, có thể làm xuất hiện tình trạng hành vi bắt buộc bán kèm của bên chuyển giao quyền vi phạm khoản 5 Điều 13 Luật Cạnh tranh năm 2004 nhưng vẫn được phép thực hiện theo quy định của pháp luật về SHTT.

Do vậy, trong quá trình chuyển giao và thực thi quyền SHTT, một số trường hợp thỏa thuận bán kèm là hợp lý và được chấp nhận nếu điều đó là cần thiết để bảo vệ uy tín của các bên và tính thống nhất của công nghệ. Tuy nhiên, điều này cũng dễ dàng dẫn đến trường hợp chủ sở hữu quyền SHTT lạm dụng để có được vị trí thống lĩnh hoặc tác động tiêu cực đến tính cạnh tranh của thị trường[15]. Vì vậy, khi xem xét một thỏa thuận bán kèm, trước khi đưa ra kết luận thỏa thuận đó có vi phạm pháp luật hay không, cần phải có sự phân tích chi tiết mục đích của việc ràng buộc và bối cảnh của thị trường đối với các thỏa thuận bán kèm.

Nếu hai sản phẩm có liên hệ với nhau theo chiều dọc, sản phẩm này là nguyên liệu của quá trình sản xuất sản phẩm kia hoặc các sản phẩm được đính kèm, gắn liền nhau nhằm tạo thành chất lượng của sản phẩm hoặc tính đồng bộ của dây chuyền công nghệ thì việc ràng buộc đó là cần thiết nhằm duy trì hay tăng danh tiếng đối với chất lượng, độ tin cậy đối với hàng hóa, dịch vụ và tính nguyên vẹn của công nghệ. Trường hợp này, pháp luật cần thừa nhận nó như một thỏa thuận cần có trong hợp đồng chuyển giao quyền SHTT. Ngược lại, nếu bên chuyển giao quyền lạm dụng điều đó nhằm đạt được vị trí độc quyền trên thị trường, tác động tiêu cực đến môi trường cạnh tranh thì thỏa thuận đó phải bị nghiêm cấm.

Vì vậy, nếu chỉ dựa vào yếu tố thị phần, hay mục đích thể hiện ra bên ngoài của các thỏa thuận bán kèm (đối với các trường hợp xin miễn trừ) theo cách tiếp cận hiện nay của Luật Cạnh tranh năm 2004 để xem xét chấp thuận hoặc không chấp thuận đối với mọi thỏa thuận bán kèm là không khả thi, mà phải tùy vào từng trường hợp, vụ việc cụ thể với các phân tích, đánh giá tác động của các thỏa thuận đó trong mối quan hệ với lợi ích mà thỏa thuận ấy mang lại nhằm đưa ra quyết định cho phép hay không cho phép thỏa thuận bán kèm (chuyển giao trọn gói).

Với những phân tích nêu trên, chúng tôi cho rằng, pháp luật SHTT và pháp luật cạnh tranh cần xác định rõ các nguyên tắc, căn cứ để xem xét, kết luận trường hợp nào thỏa thuận bán kèm sẽ được chấp thuận, trường hợp nào sẽ bị ngăn cấm trong mối quan hệ tổng hòa giữa đặc trưng của quyền SHTT và pháp luật cạnh tranh. Còn cụ thể, thỏa thuận nào đó có vi phạm pháp luật, bị ngăn cấm hay không sẽ thuộc thẩm quyền của Cục Quản lý cạnh tranh, tương tự như pháp luật của Mỹ và châu Âu.

3. Thay cho lời kết

Về nguyên tắc, chủ thể quyền SHTT có quyền độc quyền khai thác tài sản trí tuệ, nhưng điều đó không có nghĩa quyền SHTT không chịu sự tác động của pháp luật cạnh tranh. Tức là sự tồn tại quyền độc quyền theo quy định của pháp luật về SHTT phải không được phép vi phạm pháp luật cạnh tranh. Tuy nhiên, trên thực tế, việc chủ sở hữu thực hiện việc khai thác và sử dụng quyền đó có thể vi phạm pháp luật cạnh tranh.

Do đó, tương tự như các điều khoản khác có thể tồn tại trong hợp đồng chuyển giao quyền SHTT thì điều khoản về bán kèm (chuyển giao cả gói) phải được đặt trong mối tương quan với pháp luật SHTT. Theo đó, điều khoản này phải được xem xét trong sự đảm bảo quyền lợi của bên chuyển giao đối với tính thống nhất của đối tượng chuyển giao cũng như quyền lợi của người tiêu dùng đối với hàng hóa, dịch vụ được chuyển giao. Với lý do đó, yếu tố thị phần của các bên không thể là căn cứ duy nhất nhằm xem xét cho phép hay không cho phép với các thỏa thuận này mà cần phải dựa vào bản chất, mối tương quan giữa hàng hóa chính và hàng hóa được bán kèm nhằm đảm bảo tính thống nhất của các sáng chế, dây chuyền thiết bị, kỹ thuật cũng như tác động của thỏa thuận đó với môi trường cạnh tranh của thị trường thông qua việc xem xét cần thiết hay không cần thiết cho phép tồn tại thỏa thuận/ điều khoản đó giữa các bên.

Nói tóm lại, mặc dù việc khai thác, sử dụng quyền SHTT của các chủ thể đã được quy định trong pháp luật về SHTT thông qua phạm vi, thời hạn bảo hộ cùng những ngoại lệ đối với đối tượng SHTT, nhưng điều đó không mặc nhiên tạo nên vị thế độc quyền cho chủ sở hữu cũng như chấp nhận mọi hành vi của chủ thể nhằm loại bỏ sự lạm dụng của họ tác động tiêu cực đến môi trường cạnh tranh và quyền lợi người tiêu dùng. Do đó, pháp luật cạnh tranh được sử dụng bổ sung nhằm đảm bảo quyền độc quyền mà pháp luật về SHTT trao cho chủ thể quyền SHTT không bị lạm dụng bởi các hành vi hạn chế cạnh tranh, góp phần tạo nên hiệu quả điều chỉnh của pháp luật quốc gia./.


[1] Nguyễn Văn Cương (2006), Tiêu chí đánh giá tính cạnh tranh bất hợp pháp của một số nước và một số bình luận về Luật Cạnh tranh của Việt Nam, Nxb. Tư pháp, H., tr. 104.

[2] U.S Department Of Justice And The Federal Trade Commission (2007), Antitrust Enforcement And Intellectual Property Rights: Promoting Innovation And Competition, p. 104.

[3] Quan điểm này được Tòa án tối cao Mỹ công nhận trong án lệ Illinois Tool Work Inc. v. Independent Ink, Inc.

[4] U.S Department Of Justice Anh The Federal Trade Commission (2007), Antitrust Enforcement And Intellectual Property Rights: Promoting Innovation And Competition, p. 106.

[5] Xem thêm Eastman Kodak v Image Technical Services, 504 U.S. 451, 461-462 (1992).

[6]Trước đây là Điều 82(d) Hiệp định thành lập Cộng đồng châu Âu (TEC).

[7]Comparison Between U.S and E.U Antitrust Treatment Of Tying Claims Against Microsoft: When Should Bundling Of Computer Software Be Permitted, Northwestern Journal Of International Law & Business, p. 441.

[8] Thông tin được công bố trên trang web của Ủy ban châu Âu tại địa chỉ: http://europa.eu/rapid/press-release_IP-04-382_en.htm?locale=en, truy cập ngày 03/4/2017.

[9] Xem thêm tại địa chỉ: http://europa.eu/rapid/press-release_IP-04-382_en.htm?locale=en, truy cập ngày 03/4/2017.

[10] Thông tin được đăng tải trên website của Cục Quản lý cạnh tranh Việt Nam tại địa chỉ: http://www.vca.gov.vn/NewsDetail.aspx?ID=9&CateID=1, truy cập ngày 31/3/2017.

[11] James F.Ponsoldt, Christohper D.David (2007), Comparison Between U.S and E.U Antitrust Treatment Of Tying Claims Against Microsoft: When Should Bundling Of Computer Software Be Permitted, Northwestern Journal Of International Law & Business, p. 441.

[12] Hằng Nga (2009), Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại, Nxb. Tổng hợp, tr. 98.

[13] Khoản 2, 3 Điều 144 Luật SHTT.

[14] Điểm c khoản 2 Điều 144 Luật SHTT.

[15] Trong án lệ Queen City Pizza, Inc V Domino’s Pizza, Inc, bên nhượng quyền (DPI) quy định tất cả nguyên liệu, đồ dùng và bao bì sử dụng tại các cửa hàng nhượng quyền thương mại phải phù hợp với tiêu chuẩn của DPI, cho nên bên nhận quyền phải mua chúng từ DPI hoặc bên cung cấp được sự đồng ý của DPI và Tòa án phúc thẩm liên bang (Mỹ) cho rằng quy định đó là cần thiết để đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống nên được phép ghi nhận trong hợp đồng.

SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆN TỬ

Trích dẫn từ: http://www.nclp.org.vn/ban_ve_du_an_luat/thoa-thuan-ban-kem-trong-hop-111ong-chuyen-quyen-su-dung-quyen-so-huu-tri-tue-duoi-goc-nhin-phap-luat-canh-tranh

1900.0191