VẤN ĐỀ LỚN NHẤT CỦA VĂN HÓA VIỆT NAM HIỆN NAY: GIẢ DỐI ĐƯỢC COI LÀ BÌNH THƯỜNG
HỒ SỸ QUÝ
Kinh tế thị trường và làn sóng toàn cầu hóa, trong khi đem lại cho Việt Nam nhiều cơ hội phát triển, để Việt Nam từ một quốc gia nghèo đói, chậm phát triển thành một nước có thu nhập trung bình, thì rất tiếc, lại cũng là điều kiện để nhiều thói hư tật xấu của người Việt và một số yếu kém trong quản lý vĩ mô có cơ hội gây tác hại cho xã hội.
Điều đó gây dấu ấn trong văn hóa.
Hiện thời văn hóa Việt Nam đang mang trong nó một số vấn đề thực sự cản trở sự phát triển. Con người tha hóa, đạo đức xuống cấp, giáo dục yếu kém, y tế kém nhân văn, chính sách văn hóa bất cập, lễ hội ít văn hóa… là những vấn đề nóng của bản thân văn hóa Việt Nam.
Vấn đề của tất cả những vấn đề ấy, theo chúng tôi, là sự sự lệch lạc về giá trị. Bảng giá trị của người Việt hiện nay đã xuất hiện một số ngụy giá trị. Giả dối đã tương đối phổ biến trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.
Việt Nam sẽ khó trở thành quốc gia thành công, nếu ngụy giá trị vẫn tiếp tục chiếm chỗ của chân giá trị, nếu giả dối vẫn lấn át sự tử tế và chân thật.
I. Văn hóa xuống cấp: những tác động từ phía xã hội
Hơn 30 năm qua, trong tương quan với sự phát triển, văn hóa Việt Nam được đánh giá là có nhiều thay đổi theo chiều tiến bộ. Mà thay đổi lớn nhất là văn hóa ngày nay được hiểu, được cư xử và được sử dụng khác hẳn so với trước kia. Không chỉ là sản phẩm thụ động của đời sống vật chất, văn hóa đã thực sự trở thành nhân tố bên trong, là cái quy định hành vi và hoạt động của con người, cả ở phạm vi cá nhân và cả ở phạm vi các cộng đồng, các tổ chức xã hội. “Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng đảm bảo sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”[1].
Tuy nhiên cùng với sự tiến bộ không thể phủ nhận ấy, văn hóa Việt Nam với tính cách là sản phẩm thường ngày của đời sống xã hội, lại chưa đủ bản lĩnh để đề kháng trước những tác động tiêu cực từ bên trong và bên ngoài. Sự tử tế và tính nhân văn một khi không đủ mạnh để tự vệ và tấn công lại cái thiếu văn hóa và vô văn hóa, thì chính nó lại bị tha hóa vì những tác động của cái xấu và cái ác.
Tác động đến văn hóa hiện nay, là một loạt những vấn nạn lớn và nghiêm trọng về kinh tế – chính trị – xã hội. Như nhiều tài liệu chính thức và không chính thức đã phản ánh, chẳng hạn, nền kinh tế ngày càng lệ thuộc nặng nề vào nguồn vốn FDI và vào kinh tế Trung Quốc; tỷ lệ nợ côngsắp chạm trần; sự chuyển đổi mô hình phát triển vẫn rất lúng túng và chậm trễ; tình trạng tham nhũng và làm ngơ trước tham nhũng vẫn chưa có dấu hiệu dừng lại; hiểm họa của tình trạng môi trường “gần chết” khó lường; khai thác tài nguyên vẫn khó kiểm soát; khủng hoảng giáo dục chưa có lối thoát; hoạt động y tế đã xuống cấp ở chính quan hệ giữa thày thuốc với con bệnh; tình trạng cán bộ công quyền lãnh cảm với dân và với các bên đối tác chưa bớt; Biển Đông và chủ quyền lãnh thổ bị trực tiếp đe dọa, v.v…
II. Những vấn đề nhìn từ phương diện văn hóa
Do vậy, không có gì khó hiểu khi thấy văn hóa ngày nay cũng xuống cấp ở mức độ đáng ngại. Đụng đến bất kỳ lĩnh vực nào người ta cũng thấy có vấn đề về mặt văn hóa. Trong tương quan với sự phát triển, với tính cách là giá trị định hướng để đề kháng trước các tiêu cực xã hội, chúng tôi thấy, văn hóa đang mang trong nó những vấn đề bức xúc, có khả năng cản trở sự phát triển như sau:
1. Hiện tượng xuống cấp về đạo đức, tha hóa con người
Việc xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam, lấy các giá trị chân – thiện – mỹ làm cốt lõi, tuy được chú ý từ sớm nhưng chậm có những sản phẩm khoa học xứng tầm, đủ sức định hướng đời sống nên càng ngày càng trở nên mờ nhạt, kể cả trong nhận thức và trong chỉ đạo thực hiện.Việc thực hành lối sống có văn hóa chưa trở thành nhu cầu tự giác, tự nhiên trong đời sống xã hội.
Tình trạng một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống, tham ô, tham nhũng, yếu kém năng lực, tham quyền cố vị, cản trở sự phát triển, gây phiền hà, nhũng nhiễu nhân dân… đang gây mất lòng tin nghiêm trọng vào Đảng vào chế độ. Tình trạng tham nhũng và làm ngơ trước tham nhũng, mặc dù thời gian gần đây bị lên án kịch liệt trong đời sống tinh thần xã hội, nhưng dường như vẫn chưa giảm bớt được bao nhiêu.
Hiện tượng tội phạm gia tăng và có những diễn biến phức tạp thể hiện sự rối loạn của thang giá trị. Không chỉ có số lượng các vụ phạm tội về kinh tế hay hình sự gia tăng mà điều đáng sợ là tính chất dã man của các tội phạm hình sự, đối tượng phạm tội vừa trẻ vừa có kiến thức lại có xu hướng gia tăng. Trước kia, số vụ án hình sự liên quan đến sinh viên, cán bộ có trình độ đại học không nhiều, không dã man như mấy năm gần đây. Tội phạm kinh tế lớn hầu hết đều là cán bộ có chức, có quyền, có trình độ. Tình hình này đã được các phương tiện thông tin đại chúng phản ánh tương đối rõ. Không phải do dân trí thấp mà sinh ra tội phạm như quan niệm trước đây. Một trong những nguyên do là thang giá trị xã hội đang bị rối loạn.
Hiện tượng vô cảm chưa có xu hướng giảm bớt. Tinh thần “thượng tôn pháp luật” ngày càng kém; tâm lý lách luật kể cả ở các cơ quan có trách nhiệm trở thành quen thuộc trong tư duy pháp luật.
Tất cả những hiện tượng này gần như xuất hiện hàng ngày trên báo chí và tính cấp thiết của vấn đề đã được phản ánh và đề cập chi tiết trong Nghị quyết Trung ương 4 Khóa XII của Đảng (với 27 biểu hiện cụ thể về sự suy thoái…) do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ký ban hành ngày 30/10/2016: Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” trong nội bộ[2].
2. Giáo dục – đào tạo khủng hoảng ở chính chức năng của giáo dục
Giáo dục – đào tạo từ nhiều năm gần đây đã được coi là xuống cấp, đôi khi được gọi là “khủng hoảng”. Nhà nước và Bộ GD & ĐT đã thực hiện nhiều cải cách để cải thiện tình hình. Đã có một số biến chuyển, thậm chí một số tổ chức quốc tế đã có những đánh giá tích cực về giáo dục Việt Nam, nhưng giáo dục nói chung vẫn chưa thể gọi là đã thoát ra được khỏi khủng hoảng.
Đầu tư cho giáo dục tăng nhưng đầu tư công (ngoài Nhà nước) vẫn thấp. Đào tạo nhiều, các giải pháp nâng chất lượng đã có, nhưng chất lượng giáo dục – đào tạo vẫn chưa nâng lên như kỳ vọng. Thất nghiệp ở những người được đào tạo vẫn cao và vẫn tăng. Trong khi đó tình trạng thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao vẫn trầm trọng. Tâm lý thực dụng trong giáo dục ở các đối tượng được thụ hưởng giáo dục đã hình thành và dường như ngày càng tăng. Đội ngũ giáo viên và những người làm giáo dục ngày càng gặp nhiều vấn đề gây lo lắng bất an, trong đó có những vấn đề chủ yếu là do sự yếu kém của công tác quản lý gây ra.Kết quả kỳ thi tốt nghiệp phổ thông trung học kết hợp xét tuyển đại học 2017 dù được đánh giá có nhiều ưu điểm, song lại lộ ra tình trạng điểm chuẩn ngành sư phạm cực thấp, “báo động nguy hiểmvề sự thất bại của cải cách giáo dục”. Bộ GD & ĐT kêu gọi ngành giáo dục “bình tĩnh” và Bộ phải tính đến quy hoạch lại toàn bộ mạng lưới các trường sư phạm.
Tình trạng thiếu trầm trọng nguồn nhân lực chất lượng cao đang gây lãng phí rất lớn các nguồn lực khác cho phát triển, cản trở và làm giảm chất lượng tăng trưởng, kìm hãm sự phát triển của đất nước.
Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển. Nhưng giáo dục lại đang là lĩnh vực rất lãng phí, theo nghĩa đào tạo nhiều nhưng chất lượng đang xuống dần. Đào tạo nhiều, nhưng dùng được ít. Giáo dục và đào tạo của thế kỷ trước có thể hiệu quả hơn so với hiện nay bởi chi phí ít hơn, tập trung và có chọn lọc hơn, và chất lượng người học tốt hơn. Trong thực tế, không chỉ có tình trạng học sinh ngồi nhầm lớp, mà có cả tình trạng giáo viên dậy nhầm chỗ, vào trường không nhằm thực học mà chỉ để hợp lý hóa bằng cấp. Xu thế thương mại hóa giáo dục, đào tạo kém chất lượng và sính bằng cấp đang tiếp tục làm suy giảm chất lượng giáo dục và đào tạo.
Điều gây lo ngại là quản lý vĩ mô về giáo dục – đào tạo vẫn chưa có dấu hiệu tìm ra được lối thoát khỏi khủng hoảng. Nhiều biểu hiện tiêu cực trong giáo dục – đào tạo nói lên sự xuống cấp về đạo lý trong quan hệ thày trò, sự thiếu vắng về lý tưởng và hoài bão ở một bộ phận đáng kể học sinh, sinh viên. Giáo dục đào tạo chưa thực hiện được yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện để đột phá chất lượng về nguồn nhân lực – một trong số điểm nghẽn của phát triển bền vững đất nước trong giai đoạn tiếp theo.
Nhiều ý kiến cho rằng giáo dục Việt Nam lâu nay quá chú trọng dạy chữ, dạy kiến thức mà quên dạy làm người. Bộ trưởng giáo dục và nhiều chuyên gia giáo dục trong và ngoài nước tại khắp các diễn đàn đều nhấn mạnh “triết lý giáo dục là đào tạo con người”. Từ đó các nhà trường đã chữa cháy bằng việc thiết kế nhiều chương trình về kỹ năng sống, về đạo đức công dân. Rốt cuộc, nhiều sinh viên ra trường “chỉ chăm chăm làm người” mà không hề biết làm việc, kể cả những việc thuộc chuyên ngành đào tạo.
Chúng tôi nghĩ rằng, học để làm người dĩ nhiên là phương châm giáo dục đúng với mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh. Nhưng giáo dục một cá nhân, một cá thể thành một con người là chức năng của toàn xã hội. Còn với ngành giáo dục, trước hết chức năng của nó lại là dạy chữ, dạy tri thức, dạy làm việc. Chưa thực hiện được chức năng này, đừng nói đến việc dạy làm người.
Vấn đề của giáo dục Việt Nam hiện nay, theo chúng tôi, lại là quá thiếu hụt về tri thức cần thiết để làm việc. Kiến thức sau đào tạo của sinh viên đại học nói chung, hổng nghiêm trọng. Bất cứ cơ quan nào, bất cứ ngành nghề nào, sau khi nhận sinh viên mới tốt nghiệp cũng phải đào tạo lại. Hiện tượng cử nhân mới tốt nghiệp không soạn nổi một văn bản pháp quy, không biết cách trình bày một báo cáo nghề nghiệp, không biết cách trích dẫn khoa học, không hiểu thế nào là vi phạm tác quyền, hoặc thậm chí viết sai chính tả… là khá phổ biến.
Ngày nay, tri thức nghề nghiệp, kiến thức (rất thiếu nhưng thường bị chê là) hàn lâm, phương pháp nghiên cứu, kỹ năng thực hành… của trí thức trẻ nói chung rất yếu. Đó rõ ràng không phải là kết quả của việc quá chú trọng dạy chữ, dạy kiến thức mà quên dạy làm người. Ngược lại, dạy chữ, dạy kiến thức như thế thì không có cách gì thành người được.
Đây là điều mà ngành giáo dục theo chúng tôi chưa chú ý ở mức thỏa đáng.
3. Y tế xuống cấp ở chính quan hệ giữa thày thuốc với con bệnh
Nền y tế Việt Nam trong nhiều năm qua thực ra là có nhiều thành tựu, được cộng đồng thế giới ghi nhận. Khoa học y tế ở Việt Nam cũng được coi là ở trình độ khá cao; có ý kiến còn đánh giá là cao nhất trong số các khoa học chuyên ngành ở Việt Nam, không thua kém khu vực. Tuy nhiên những vấn đề của ngành y tế và các vấn nạn xã hội trong y tế lại ở mức đáng ngại: Hệ thống bệnh viện tư nhân khó phát triển như dự kiến do cơ chế chứ không phải do năng lực. Các bệnh viện công lại không phát huy được tiềm lựcvì có quá nhiều cái thiếu, mà thiếu nhất là một hệ thống các quan hệ giữa người với người bình thường trong hoạt động y tế. Hoạt động ytế xuống cấp, không chỉ ở những hiện tượng tiêu cực trong khám chữa bệnh, trong dich vụ cung ứng thuốc men, trong thói vô cảm của người ngoài cuộc… mà ở chính quan hệ giữa thày thuốc với con bệnh. “Lương y” rất hiếm hoi được coi như “từ mẫu”. Rất ít người xem nghề y là cao quý vì sứ mệnh chữa bệnh cứu người như trước đây. Quan hệ giữa thầy thuốc với con bệnh ngày nay khác rất nhiều so với quan niệm có phần thiêng liêng cao quý trong quan niệm xưa và trong sách giao khoa về y tế. Con bệnh quý trọng và cư xử đúng mực với thày thuốc ngày càng ít đi.
Cách đây vài năm, trong chuyên mục “dưới con mắt người nước ngoài”, một bài báo đã nhận xét, “sống giữa một xã hội mà hai người thầy được trọng nhất (thầy giáo và thầy thuốc) chỉ chấp hành nghĩa vụ tử tế khi có phong bì, con người không nhẫn tâm và đốn mạt đi mới là lạ”[3].
Bảo hiểm y tế có nhiều bất cập. Tình trạng giá cả thuốc chữa bệnh bất thường do quản lý kém và do vụ lợi. Các vấn nạn y tế rất nghiêm trọng nhưng lại được Bộ Y tế và xã hội coi là bình thường[4].
4. Vấn đề của các chính sách về văn hóa
Việc xây dựng chính sách về văn hóa, trên thực tế còn tình trạng thiếu đồng bộ, chậm trễ. Mặc dù không thể phủ nhận, hơn 30 năm qua, các chính sách thuộc lĩnh vực văn hóa đã được ban hành khá nhiều và bao quát rộng khắp các hoạt động, từ văn hóa dân tộc đến văn hóa bên ngoài, từ việc luật hóa các hoạt động văn hóa tới việc xây dựng các thiết chế văn hóa, từ quảng bá văn hóa đến đầu tư cho văn hóa… Tuy vậy, việc ban hành chính sách lại lộ rõ sự ôm đồm của nhà nước trong can thiệp vào hoạt động và đời sống văn hóa. Việc xây dựng các cơ sở văn hóa không hợp với phong tục tập quán truyền thống của người dân bản địa đã gây ra lãng phí lớn về ngân sách. Các cấp chính quyền khi quá quan tâm chỉ đạo trực tiếp lễ hội, trong nhiều trường hợp lại trở thành sự can thiệp ít văn hóa. Việc thiếu quan tâm đến đời sống văn hóa người dân, chạy theo các danh hiệu văn hóa, thả nổi trùng tu di tích… đã gây nên tình trạng rối loạn trong hoạt động văn hóa. Một số văn bản đôi khi được ban hành một cách chủ quan, nóng vội, mâu thuẫn, thể hiện nhận thức hạn chế về văn hóa, nên không thực hiện được, gây mất lòng tin của người dân, thậm chí gây phản kháng đối với một vài chính sách văn hóa. Tình trạng hoài nghi trình độ văn hóa của các cơ quan quản lý văn hóa và trình độ của một số cán bộ văn hóa có vẻ như ngày càng tăng. Tư tưởng về trao quyền chủ động cho người dân trong hoạt động văn hóa, nhất là các loại văn hóa truyền thống, trên thực tế rất ít được thực hiện.
Một số lĩnh vực còn xảy ra chồng chéo giữa các Bộ, ngành trong quản lý (chẳng hạn vấn đề bản quyền, xuất bản giữa Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Bộ Thông tin và truyền thông).
5. Sự chênh lệch về đời sống văn hóa
Sự chênh lệch giữa các tầng lớp nhân dân, giữa các vùng miền, đặc biệt là giữa đô thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, hải đảo về thu nhập, về mức sống, về giáo dục, chăm sóc y tế… đã được nói tới khá nhiều và biểu hiện của nó khá rõ. Song sự chênh lệch về hưởng thụ văn hóa dường như còn rất ít được đặt ra.
Phần lớn các hoạt động văn hóa lớn, các lễ hội tưởng niệm, lễ hội du lịch, các chương trình nghệ thuật, các tuần văn hóa, các hội chợ văn hóa… đều được tổ chức ở các thành phố lớn, các khu đô thị. Khu vực nông thôn hiện nay dù đã có các nhà văn hóa nhưng mô hình chung còn đơn điệu, nội dung sinh hoạt còn chưa đa dạng và thiếu chiều sâu, chủ yếu là dùng để họp hành và giải trí. Các sinh hoạt văn hóa của đồng bào dân tộc và miền núi còn chưa được coi trọng, chưa phát huy được thế mạnh bản sắc riêng về văn hóa.
Xã hội càng phát triển, thế giới của người giàu và thế giới của người nghèo càng cách biệt. Ngày nay, các thành phố lớn đều chia làm hai – đô thị của người giàu và đô thị của người nghèo. Có nhiều khu đô thị, nhà hàng, rạp hát, trung tâm giải trí và sinh hoạt văn hóa… mà người nghèo, kể cả người không giàu, không thể “có quyền” đặt chân tới. Ẩm thực của người giàu là một thế giới về văn hóa; nghe tên món ăn đã biết địa vị của người dùng. Tại một số địa phương có biển, bãi biển cũng chỉ còn một phần rất nhỏ dành cho đông đảo người nghèo.
Sự chênh lệch về đời sống văn hóa như vậy không bắt nguồn từ người dân, mà từ thể chế, từ quyết sách vĩ mô của các cơ quan quản lý.
6. Vấn đề về tính văn hóa của các lễ hội
Sự gắn kết giữa tín ngưỡng, lễ hội và du lịchngày càng trở nên chặt chẽ. Bên cạnh sự phục hồi của tín ngưỡng, lễ hội dân gian truyền thống, thì xu hướng đua nhau tổ chức những lễ hội mới cũng ngày càng phổ biến hơn. Những lễ hội mới vừa có nguồn gốc tiếp nhận từ bên ngoàivừa có những lễ hội nội sinh. Loại hình du lịch lễ hội, du lịch tín ngưỡng, du lịch hành hương… phát triển không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn mở rộng sự kết nối ra cả thế giới. Việt Nam vốn đã có nhiều lễ hội, nhưng chưa bao giờ lễ hội lại nhiều đến như hiện nay.
Vấn đề là ở chỗ, những tiêu cực nảy sinh trong lễ hội lại khá phổ biến. Cùng với tình trạng quản lý kém, chính quyền can thiệp nhiều khi không tuân theo quy luật của văn hóa, nên đã làm xấu hình ảnh của con người và văn hóa Việt Nam, gây bức xúc cho xã hội. Đặc biệt là nạn nhét tiền lẻ ở khắp nơi trên ban thờ, trên tượng, trên kẽ đá tại những đền chùa. Hàng quán dịch vụ kém văn hóa la liệt ở khắp mọi cơ sở tín ngưỡng, làm cho văn hóa tâm linh mất đi vẻ tôn nghiêm cần có. Những tiêu cực của lễ hội đã khiến cho cơ quan Chính phủ cũng phải quan ngại[5].
III. Vấn đề của những vấn đề – sự lệch lạc về giá trị: giả dối được coi là bình thường
Ẩn giấu bên trong và xuyên tất cả những vấn đề nói trên là sự lệch lạc về giá trị. Có thể nói bản chất của những hiện tượng có vấn đề về mặt văn hóa đó là sự lệch lạc, méo mó về giá trị.
Hiện tượng lệch lạc về giá trị lâu nay đã được báo chí nói nhiều và thực sự ngày càng phổ biến trong đời sống văn hóa. Nhưng điều đáng nói là, gần đây sự lệch lạc này dường như dần đã thành quen, trở thành bình thường, ít gây khó chịu như những năm trước.
Chẳng hạn, những hành vi phản cảm, thời thượng, lố bịch của giới Showbiz được báo mạng và thậm chí cả TV quảng bá hàng ngày, lớp trẻ mới lớn tưởng đó là chân giá trị[6]. Khá nhiều danh hiệu hão được tiếp tay bởi các cơ quan có trách nhiệm, kể cả nhân danh UNESCO. Tạp chí khoa học gần đây không hẳn là nơi công bố những phát kiến mới của khoa học. Bằng giả, danh hiệu giả, kiến thức giả… gần như không còn là điều xấu hổ. Tệ nạn “mua điểm” đã xuất hiện cả ở những trường Phổ thông danh tiếng Hà Nội. Hiện tượng “chạy” (chạy chức, chạy quyền, chạy tiêu chuẩn, chạy tuổi…) ai cũng thấy nhưng coi như không biết. Ở nhiều công trình, dự án… mục đích ghi trong văn bản chỉ là phương tiện, là công cụ cho tham nhũng. Mọi đề án quốc kế dân sinh đều có nguy cơ đổ vỡ nếu ở đó tham nhũng hay mục đích vụ lợi không thực hiện được. V.v… Nghĩa là gần như ở đâu cũng có những giá trị mà kẻ vụ lợi có thể có được một cách bất chính. Rất tiếc là xã hội lại thừa nhận bằng cách làm ngơ coi như không thấy. Quá nhiều giá trị ngày nay đã méo mó tới mức trở thành “ngụy giá trị”.
Sinh thời, GS. Hoàng Ngọc Hiến đã nhận xét: “Xã hội không quan tâm đến “sự tử tế”, “sự hẳn hoi” thì dần dà những người tử tế, hẳn hoi sẽ biến mất; ngược lại, xã hội còn nhớ đến những phẩm hạnh này, thì những người hẳn hoi, tử tế mới xuất hiện được”[7]. GS. Nguyễn Văn Trọng cũng thừa nhận: “Một cộng đồng mà đam mê cai trị người khác mạnh hơn nhiều so với ham muốn có độc lập cá nhân để làm những công việc sáng tạo, thì đó chính là một cộng đồng săn tìm địa vị theo cách gọi của J.S. Mill”[8].
Giả dối khá phổ biến, làm nản lòng sự trung thực, tử tế. Có lẽ chỉ trừ môi trường gia đình còn ở đâu người ta cũng bắt gặp cái giả dối (trong môi trường gia đình, giả dối không phải là không có, nhưng không gia đình nào chấp nhận điều giả dối, trừ phi giấu diếm được). Còn trong xã hội, sự bao che cho cái xấu, cái bất minh khá trắng trợn.Khác với vài chục năm trước đây, ngày nay, con cái dù được tuyển dụng vào môi trường nào, kể cả quân đội, công an hay cơ quan nhà nước… cũng không đủ làm cho các bậc cha mẹ cảm thấy thật yên tâm, nếu không có “van an toàn” riêng, vì khó có gì đảm bảo an toàn.
Từ sau Nghị quyết TW 4, sự trắng trợn kiểu như “đúng quy trình” ít nhiều có bớt đi, nhưng vẫn còn khá nghiêm trọng. Sự tha hóa, lối sống xa hoa, phù phiếm… có xu hướng ngày càng phổ biến.
Trên thực tế, hai giá trị giữ vị trí thống trị ngày nay rất tiếc lại là “tiền” và “làm quan”. Khoe tiền, khoe của, khoe giàu sang… rất công nhiên. Mọi giá trị khác hóa ra đều nhỏ bé, không mấy ý nghĩa nếu không được “đảm bảo” bằng tiền. Mọi thành đạt cũng chỉ tương đối trong so sánh với “làm quan”. Người không may mắn trên đường “hoạn lộ” thường ít được cảm thông, mà buộc phải chịu sự dè bỉu trước hết là của người thân, sau đó mới là của đồng nghiệp và xã hội.
IV. Kết luận
Văn hóa và phát triển là mối quan hệ quy định lẫn nhau, đôi khi là nhân quả, nhưng cũng đôi khi không tất nhiên.
Khi đóng vai trò là nhân tố bên trong, là cái nằm ở tầng sâu của đời sống xã hội, văn hóa Việt Nam quy định sự phát triển của xã hội ngày nay bằng những giá trị định hướng được xác lập từ lịch sử nhiều nghìn năm của văn hóa dân tộc. Sự phát triển của xã hội Việt Nam hiện đại dù biến động theo phương thức nào vẫn chắc chắn sẽ đi theo quỹ đạo của một xã hội tiến bộ, công bằng, với những con người nhân văn, thông minh, có đủ sức mạnh và trí tuệ xây dựng đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Nhưng trong khuôn khổ là nhân tố chịu sự tác động của đời sống xã hội hiện thời, thì văn hóa Việt Nam hiện nay lại mang trong nó một số hạn chế, khiếm khuyết, cần phải được chủ động nhận diện và kiên quyết thay đổi để phát triển.
Qua mấy chục năm tiếp cận với kinh tế thị trường và làn sóng toàn cầu hóa, nhiều thói hư tật xấu của người Việt và một số yếu kém trong quản lý vĩ mô, chẳng những vẫn chưa được khắc phục mà còn cộm lên thành những vấn đề cản trở sự phát triển. Con người tha hóa, đạo đức xuống cấp, giáo dục yếu kém, y tế kém nhân văn, chính sách văn hóa bất cập, lễ hội ít văn hóa… là những vấn đề nóng của bản thân văn hóa Việt Nam.
Nhưng ẩn giấu bên trong và xuyên qua tất cả những vấn đề ấy là sự sự lệch lạc về giá trị. Theo chúng tôi, vấn đề lớn nhất của văn hóa Việt Nam hiện thời là sự lệch lạc về giá trị. Bảng giá trị của người Việt truyền thống và hiện đại hiện nay đã vô tình bị xếp sai một số vị trí thành ngụy giá trị. Thói vụ lợi và thực dụng qua sự kích thích của mặt trái kinh tế thị trường đã làm cho không ít người tưởng rằng tiền bạc và hoạn lộ là giá trị đỉnh cao của đời sống. Giả dối được tiếp tay bởi những kẽ hở của cơ chế đã biến thành lối sống, thành phương thức sống của không ít kẻ vụ lợi.
Sự phát triển đòi hỏi mỗi các nhân và các tổ chức xã hội phải thật sự nghiêm khắc với những thói hư tật xấu này để bảng giá trị trở lại với chân giá trị. Xã hội muốn phát triển, ngụy giá trị không thể chiếm chỗ của chân giá trị, giả dối không thể lấn át sự tử tế và chân thật.
………………………..
Chú thích:
[1].Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Nxb. CTQG. Hà Nội, tr. 126.
[2].Xem: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 – khoá XII.https://thuvienphapluat.vn/tintuc/vn/thoi-su-phap-luat/chinh-sach-moi/14839/nghi-quyet-hoi-nghi-trung-uong-4-khoa-xii
[3]. Rùng mình khi nghĩ đến bệnh viện.http://tuoitre.vn/rung-minh-khi-nghi-den-benh-vien-360266.htm.
[4]. Giá bán lẻ sữa ở Việt Nam ở mức cao nhất thế giới, gấp đôi Malaysia và gấp 1,5 lần Thái Lan. Giá thuốc Tây tại Việt Nam thuộc hàng đắt nhất thế giới: theo khảo sát của WHO với 7 nhóm thuốc thông dụng, giá thuốc tại Việt Nam cao từ 5 đến 40 lần so với giá trung bình thế giới. Hiện tượng nạo phá thai cao nhất thế giới. Tỷ lệ trẻ em chết đuối ở Việt Nam cao nhất khu vực Đông Nam Á (khoảng 10 trẻ em độ tuổi 7-15 tử vong vì chết đuối mỗi ngày). Tai nạn giao thông với khoảng 1000 người chết mỗi năm. Việt Nam vẫn nằm trong số 36 quốc gia có tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi trên phạm vi toàn cầu (Đàn ông Việt Nam có chiều cao trung bình 1m62, thấp nhất ASEAN, kém cả Campuchia, và thấp hơn nhiều so với Đông Bắc Á).
[5]Trước những diễn biến phức tạp của lễ hội, ngày 9/2/2011, Chính phủ đã có Công điện gửi các Bộ và các đơn vị liên quan, yêu cầu chấn chỉnh những biểu hiện tiêu cực, phản cảm tại các lễ hội trên cả nước, nhất là dịp đầu năm.
[6]Thái Sơn(2017). Showbiz Việt và những khủng hoảng văn hóa.http://vnca.cand.com.vn/dien-dan-van-nghe-cong-an/Show-biz-Viet-va-nhung-khung-hoang-van-hoa-463845/
[7].Hoàng Ngọc Hiến (2010). Sự hẳn hoi của một chính khách lớn
http://www.tuanvietnam.net/2010-02-13-su-han-hoi-cua-mot-chinh-khach-lon
[8]. Nguyễn Văn Trọng (2010). Tai họa từ lòng ghen tỵ.Thời báo Kinh Tế Sài Gòn.
http://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/tai_hoa_tu_long_ghen_ty.html
SOURCE: VĂN HÓA NGHỆ AN
Trích dẫn từ: http://vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/van-de-lon-nhat-cua-van-hoa-viet-nam-hien-nay-gia-doi-duoc-coi-la-binh-thuong