Xoay quanh vấn đề thủ tục tiến hành phiên toà sơ thẩm dân sự

Xoay quanh vấn đề thủ tục tiến hành phiên toà sơ thẩm dân sự


Xoay quanh vấn đề thủ tục tiến hành phiên toà sơ thẩm dân sự
Xoay quanh vấn đề thủ tục tiến hành phiên toà sơ thẩm dân sự

MỞ ĐẦU

Sau khi hoà giải không thành hoặc đối với những vụ án dân sự pháp luật quy định không được hoà giải hoặc không tiến hành hoà giải được, toà án phải tiến hành phiên xét xử vụ án dân sự. Phiên xét xử này được gọi là phiên toà sơ thẩm vụ án dân sự. Phiên toà sơ thẩm vụ án dân sự là phiên xét xử vụ án dân sự lần đầu của Toà án. Qua quá trình học tập và nghiên cứu môn Luật Tố tụng Dân sự, trong nội dung bài này em xin được đi sâu tìm hiểu, nhận xét, đánh giá và đưa ra những kiến nghị về vấn đề thủ tục tiến hành phiên toà sơ thẩm dân sự.

NỘI DUNG

Phiên toà sơ thẩm dân sự được tiến hành trong một thời điểm, thời gian nhất định. Tại phiên toà sơ thẩm tập trung các hoạt động tố tụng của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng như thẩm phán, hội thẩm, thư ký toà án, đương sự và người bảo vệ quyền lợi của đương sự v.v.. Hội đồng xét xử (HĐXX ) thực hiện việc xét xử qua việc nghe các bên đương sự trình bày, tranh luận; kiểm tra, xác minh các tài liệu, chứng cứ của vụ án một cách toàn diện và khách quan; áp dụng đúng pháp luật quyết định giải quyết vụ án. Khác với việc hoà giải vụ án, toà án chỉ tập trung vào những vấn đề cơ bản, ở phiên toà sơ thẩm, toà án phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án.

I.Thủ tục tiến hành phiên toà sơ thẩm dân sự và thực tiễn thực hiện

1) Chuẩn bị khai mạc phiên toà sơ thẩm

Việc thực hiện các công việc trong bước chuẩn bị khai mạc phiên toà là nhiệm vụ của thư ký toà án. Đây là thủ tục bắt buộc đảm bảo cho phiên toà diễn ra có sự tham gia đầy đủ của những người tham gia tố tụng, kiểm tra lại xem có trường hợp nào phải hoãn phiên toà không đồng thời còn nhằm xác lập trật tự của phiên toà trước khi khai mạc.

Những quy định về giai đoạn này nói chung khá dễ hiểu và không có gì khó khăn cho người thực hiện. Nhưng nó cũng là một quy định có vai trò rất quan trọng góp phần củng cố thái độ tôn trọng pháp luật của những người tham gia tố tụng, tạo ra môi trường pháp lý nghiêm minh, thuận lợi cho việc xét xử được tiến hành sau này.

2) Thủ tục bắt đầu phiên toà sơ thẩm

Giai đoạn này gồm có bốn công việc phải tiến hành, tương ứng với bốn điều luật quy định từ Điều 213 đến Điều 216 BLTTDS năm 2004

– Khai mạc phiên toà (Điều 213)

Khai mạc phiên toà là thủ tục tố tụng bắt buộc phải thực hiện trước khi hội đồng xét xử tiến hành xét xử. Theo quy định tại Điều 213 BLTTDS, việc khai mạc phiên toà được thực hiện như sau:

1.Chủ toạ phiên toà khai mạc phiên toà và đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử.

2.Thư ký Toà án báo cáo với HĐXX về sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia phiên toà theo giấy triệu tập, giấy báo của Toà án và lý do vắng mặt. Chủ toạ phiên toà kiểm tra lại sự có mặt của những người tham gia phiên toà theo giấy triệu tập, giấy báo của Toà án và kiểm tra căn cước của đương sự.

3.Chủ toạ phiên toà phổ biến quyền, nghĩa vụ của các đương sự và của những người tham gia tố tụng khác; giới thiệu họ, tên những người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch.

4.Chủ toạ phiên toà hỏi những người có quyền yêu cầu thay đổi những người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch xem họ có yêu cầu thay đổi ai không.

– Thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch (Điều 214)

Theo quy định tại Điều 214 BLTTDS, trong trường hợp có người yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch thì HĐXX phải xem xét, nghe ý kiến của người bị thay đổi tại phiên toà trước khi quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận. Trường hợp không chấp nhận thì HĐXX phải nêu rõ lý do. Quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch phải được HĐXX thảo luận, thông qua theo đa số tại phòng nghị án và phải lập thành văn bản. Trong trường hợp không có người thay thế thì HĐXX ra quyết định hoãn phiên toà.

Đây là một quy định góp phần thể hiện sự công bằng, sự vô tư trong xét xử và đảm bảo quyền của người tham gia tố tụng.

– Xem xét, quyết định  việc hoãn phiên toà khi có người vắng mặt (Điều 215)

Theo quy định của Điều 215 BLTTDS, thì quyết định hoãn phiên toà phải được HĐXX thảo luận, thông qua theo đa số tại phòng nghị án và phải được lập thành văn bản. Toà án được tổ chức chủ yếu nhằm mục đích giải quyết các mâu thuẫn của con người trong xã hội một cách có trật tự và hợp pháp, nên hiển nhiên yếu tố người tham gia tố tụng trong toà án sẽ là yếu tố trọng tâm quan trọng nhất khi tiến hành xét xử, nếu có người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên toà thì HĐXX có thể xem xét và quyết định cho hoãn phiên toà.

– Bảo đảm tính khách quan của người làm chứng (Điều 216)

Người làm chứng là người có vai trò rất quan trọng giúp xác minh sự thật của vụ án, vì vậy việc đảm bảo tính khách quan đối với người làm chứng là vấn đề cấp thiết phải được thực hiện nghiêm ngặt. Người làm chứng biết các tình tiết có liên quan đến vụ án, được toà án triệu tập tham gia tố tụng để làm rõ các tình tiết của vụ án dân sự. Những thông tin mà người làm chứng khai báo, cung cấp cho toà án rất có giá trị, do quyền lợi của họ có thể không bị ảnh hưởng bởi các vấn đề của vụ án nên thông tin của họ đưa ra sẽ chính xác hơn những thông tin Toà án nhận được từ các bên đương sự.

3) Thủ tục hỏi tại phiên toà sơ thẩm

Dựa trên nguyên tắc Toà án chỉ thụ lý vụ án dân sự khi có đơn khởi kiện của đương sự và toà án chỉ giải quyết trong phạm vi yêu cầu của đơn khởi kiện. Trong quá trình tố tụng, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi, bổ sung các yêu cầu của mình; có quyền thoả thuận giải quyết với nhau về các vấn đề có tranh chấp không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Như vậy, theo quy định tại Điều 217 BLTTDS, trước khi hỏi về nội dung vụ án, chủ toạ phiên toà hỏi đương sự về các vấn đề thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu. Sau khi đã có được những yêu cầu của đương sự thì HĐXX sẽ xem xét và quyết định vấn đề này, nhằm đảm bảo quyền lợi của đương sự trong phạm vi pháp luật cho phép, việc thực hiện yêu cầu có thể dẫn đến việc thay đổi địa vị tố tụng của các đương sự.

Trước khi đưa vụ án ra xét xử, theo Điều 220 BLTTDS quy định chủ toạ phiên toà hỏi lại thêm lần nữa xem đến thời điểm này các đương sự có thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án hay không. Nếu các bên vẫn không thể thoả thuận thì HĐXX bắt đầu xét xử vụ án bằng việc nghe lời trình bày của các đương sự về các yêu cầu và các tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ tranh chấp theo trình tự tại Điều 221 BLTTDS. Tại phiên toà, thì đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cùng song hành tham gia tố tụng, cả hai người cùng có quyền bổ sung chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu, đề nghị của đương sự.

Sau khi HĐXX nghe xong lời trình bày của các bên đương sự, việc hỏi từng người về từng vấn đề của vụ án được tiến hành ngay. Theo quy định tại Điều 222 BLTTDS, các chủ thể có quyền tham gia vào quá trình hỏi tại phiên toà gồm có: các thành viên của HĐXX, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đương sự, những người tham gia tố tụng khác và kiểm sát viên nếu có. Trình tự hỏi từng người về từng vấn đề của vụ án được tiến hành theo thứ tự chủ toạ phiên toà hỏi trước, rồi đến hội thẩm nhân dân, kế đến là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, tiếp theo là đương sự, Kiểm sát viên (nếu có), rồi đến những người tham gia tố tụng khác. Việc hỏi được tiến hành riêng cho từng người, xong người này mới đến người khác, các câu hỏi được đặt ra phải liên quan đến vụ án và về những vấn đề mà đương sự, người bảo vệ của đương sự trình bày chưa rõ.

Mục đích của việc hỏi tại phiên toà là để xem xét, thẩm tra các tài liệu, chứng cứ của vụ án, thông qua đó làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án, nhất là về những vấn đề của vụ án mà các bên đương sự còn có các ý kiến khác nhau. Dựa theo quy định tại Điều 227, 228 và Điều 229 BLTTDS, trong quá trình diễn ra việc hỏi tại phiên toà, vật chứng, ảnh hoặc biên bản xác nhận vật chứng được đưa ra xem xét một cách đầy đủ, toàn diện để tạo căn cứ cho phán quyết của toà án. Đối với những trường hợp phải giữ bí mật nhà nước, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư v.v.. theo yêu cầu của đương sự thì HĐXX không phải công bố các tài liệu này.

Sau khi đã thực hiện đầy đủ các thủ tục hỏi tại phiên toà, HĐXX nhận thấy các tình tiết của vụ án đã được xem xét đầy đủ thì chủ toạ phiên toà hỏi Kiểm sát viên, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và những người tham gia tố tụng khác xem họ có yêu cầu hỏi vấn đề gì nữa không. Nếu không có ai nêu ra vấn đề gì nữa thì chủ toạ phiên toà tuyên bố kết thúc việc hỏi và chuyển sang phần tranh luận tại phiên toà.

Trong quá trình xét xử tại phiên tòa, theo pháp luật hiện nay thì HĐXX giữ vai trò chủ động và tích cực tham gia vào các hoạt động xét hỏi các đương sự, người đại diện của đương sự, người làm chứng, người giám định. Mặt khác, khi xét hỏi thì toàn bộ chứng năng HĐXX và chủ tọa phiên tòa có vẻ như đã hướng quá sâu vào việc chứng minh, còn các bên đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, những người tham gia tố tụng khác chỉ tham gia vào quá trình chứng minh ở mức hạn chế hơn. Và tất nhiên khi phải đảm nhiệm toàn bộ trách nhiệm chứng minh ở phiên tòa thì HĐXX sẽ không thể thực hiện chức năng chính của Toà án là xét xử nữa, cụ thể như không có điều kiện tập trung vào xem xét, đánh giá các chứng cứ, hướng quá trình tranh tụng giữa các bên đương sự vào việc làm sáng tỏ các yêu cầu, cũng như các tình tiết khác nhau về quan hệ pháp luật dân sự mà từ đó phát sinh tranh chấp giữa các đương sự.

4) Tranh luận tại phiên toà sơ thẩm

Bản chất của tranh luận là sự đối đáp giữa các bên đương sự về chứng cứ, lý lẽ và quan điểm về việc giả quyết vụ án dân sự. Do đó, Điều 232 BLTTDS quy định, khi tranh luận người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phát biểu trước, sau đó đương sự bổ sung ý kiến (theo thứ tự nguyên đơn, bị đơn, người có quyền, nghĩa vụ liên quan).

Phát biểu của các bên khi tranh luận là bình đẳng và thông qua đó các bên thể hiện quan điểm của mình về đánh giá chứng cứ, đánh giá yêu cầu, từ đó đưa ra phương án giải quyết vụ án. Đối với những vấn đề mà các bên còn có những ý kiến không thống nhất, trái ngược nhau thì họ có quyền đối đáp lại ý kiến của người khác. Do đó, hoạt động tranh luận có thể diễn ra trong khoảng thời gian không xác định, việc kết thúc tranh luận phụ thuộc vào các chủ thể tham gia tranh luận, khi sự thật khách quan đã được xác định hoặc các bên chấp nhận.

Như vậy, việc không hạn chế thời gian tranh luận là điểm tích cực và tiến bộ của BLTTDS năm 2004, thể hiện tinh thần mở rộng tranh tụng, tạo điều kiện cho đương sự có khả năng sử dụng mọi phương pháp chứng minh theo luật định để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nhưng mặt khác trên thực tế hiện nay, thủ tục tranh luận ở nhiều phiên tòa còn không được tiến hành hoặc được tiến hành rất đại khái. Vì vậy phiên tòa còn không khách quan, thiếu dân chủ, không có việc tranh tụng thực tế mà việc đó diễn ra một cách hình thức và phiên tòa chỉ coi như là một hình thức để hợp pháp hoá một bản án đã quyết định từ trước.

Dựa vào Điều 234 BLTTDS, trong trường hợp Kiểm sát viên tham gia phiên toà thì sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong, chủ toạ phiên toà đề nghị Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án. Theo quy định của BLTTDS, VKS tham gia phiên toà sơ thẩm với vai trò là cơ quan tiến hành tố tụng, thực hiên chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật cho nên Kiểm sát viên chỉ phát biểu ý kiến sau khi các bên đương sự đã tranh luận xong. Khi phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án, Kiểm sát viên phân tích nội dung vụ án, đánh giá chứng cứ, đối chiếu quy định của pháp luật có liên quan và đề xuất hướng giải quyết vụ án. Ý kiến của Kiểm sát viên về việc giải quyết vụ án là một trong những căn cứ để HĐXX thảo luận, xem xét giải quyết vụ án khi nghị án.

Quy định về phát biểu của đại diện Viện kiểm sát sau tranh luận tại Điều 234 BLTTDS là một quy định cần thiết, vì Kiểm sát viên trên thực tế là những người có kiến thức chuyên môn cao, lại có quá trình nghiên cứu về hồ sơ vụ án nên những câu hỏi họ đưa ra sẽ có vai trò quan trọng trong việc làm sáng tỏ vụ án. Nhưng xét về mặt trái, Kiểm sát viên cũng chỉ là một luồng ý kiến cá nhân, nên đôi khi sẽ không có được sự khách quan cần thiết cho việc xét xử vụ án.

Cuối cùng, sau khi tranh luận, nếu có tình tiết của vụ án chưa được xem xét, việc xem xét chưa đầy đủ hoặc cần xét thêm chứng cứ thì HĐXX quyết định trở lại việc hỏi; sau khi hỏi xong phải tiếp tục tranh luận (Điều 235 BLTTDS).

5) Nghị án và tuyên án

Nghị án là việc HĐXX xem xét, quyết định giải quyết vụ án. Sau khi kết thúc phần tranh luận, trên cơ sở kết quả của việc hỏi và tranh luận tại phiên toà, HĐXX vào phòng nghị án để thảo luận quyết định giải quyết các vấn đề của vụ án. Chỉ có các thành viên của HĐXX mới có quyền nghị án. Khi nghị án phải có biên bản ghi lại ý kiến đã thảo luận và quyết định của HĐXX. Việc nghị án được thực hiện theo quy định tại Điều 236 BLTTDS.

Qua nghị án, trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, việc nghị án đòi hỏi phải có thời gian dài thì HĐXX có thể quyết định thời gian nghị án, nhưng không quá năm ngày làm việc kể từ khi kết thúc tranh luận tại phiên toà; nếu xét thấy có tình tiết của vụ án chưa được xem xét, việc hỏi chưa đầy đủ hoặc cần xem xét thêm chứng cứ thì HĐXX quyết định trở lại việc hỏi và tranh luận.

Như vậy, ta có thể thấy về nguyên tắc việc nghị án là bí mật, là trường hợp đặc biệt của nguyên tắc xét xử công khai, được tiến hành tại phòng riêng và trong quá trình nghị án không ai được vào phòng nghị án. Quy định về nghị án đảm bảo cho việc nghị án được độc lập, khách quan, vô tư, công minh và không bị tác động từ các yếu tố ngoài lề.

Sau khi bản án đã được thông qua, hội đồng xét xử trở lại phòng xét xử để tuyên án. Theo Điều 239 BLTTDS thì thủ tục tuyên án được thực hiện như sau:

– Khi tuyên án, mọi người trong phòng xử án phải đứng dậy, trừ trường hợp đặc biệt được phép của chủ toạ phiên toà. Chủ toạ phiên toà hoặc một thành viên khác của HĐXX đọc bản án và sau khi đọc xong có thể giải thích thêm về việc thi hành bản án và quyền kháng cáo.

– Trong trường hợp có đương sự không biết tiếng Việt thì sau khi tuyên án, người phiên dịch phải dịch lại cho họ nghe toàn bộ bản án sang ngôn ngữ mà họ biết.

Đây có thể được coi là thủ tục cuối cùng để kết thúc phiên toà sơ thẩm.

II.Một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về thủ tục tiến hành phiên toà sơ thẩm

1) Về bảo đảm tính khách quan của người làm chứng

Dựa vào quy định tại Điều 216 BLTTDS về bảo đảm tính khách quan của người làm chứng, thì HĐXX hoặc chủ toạ phiên toà có trách nhiệm đưa ra những biện pháp cần thiết để những người làm chứng không nghe được lời khai của nhau hoặc tiếp xúc với những người có liên quan. Nhưng lại không có hướng dẫn cụ thể đó là những cách thức nào. Theo em đây là một thiếu sót trong Bộ luật tố tụng dân sự 2004, vì tuy không có vai trò quan trọng như người làm chứng trong tố tụng hình sự để lập ra thành những điều luật riêng về triệu tập, dẫn giải hay thời gian lấy lời khai; nhưng người làm chứng trong tố tụng dân sự cũng có vai trò không thể thiếu để xác định sự thật khách quan, nên luật cần quy định một số điều cụ thể về các biện pháp bảo đảm tính khách quan của người làm chứng như giám sát không cho họ tiếp xúc với các đương sự để tránh họ thống nhất lời khai hay chứng cứ nhằm làm sai sự thật; hạn chế việc làm chứng của những người có mối quan hệ mật thiết với đương sự, nếu có thì phải kiểm tra nghiêm ngặt tính chính xác của lời khai; trong trường hợp cần thiết có thể không tiết lộ nhân thân những người làm chứng và có phương thức cụ thể hơn như cách ly, giám sát trực tiếp nhằm bảo đảm bí mật, an toàn cho họ từ trước khi phiên toà diễn ra.

2) Về nội dung xem xét việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu

Theo Điều 218 về xem xét việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu, tại khoản 1 có quy định HĐXX chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự, nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu. Nhưng tại điều này lại không có lý giải về việc thế nào là vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu, kể cả ở Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành các quy định trong phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại toà án cấp sơ thẩm” của Bộ luật tố tụng dân sự cũng không có hướng dẫn về vấn đề này. Nên theo em, BLTTDS nên bổ sung quy định tại Điều 218 với nội dung lý giải cụ thể thế nào là không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu, để tạo sự thuận tiện,dễ hiểu, thống nhất trong cách xử lý của Toà án.

3) Về nội dung tranh luận tại phiên toà sơ thẩm

Ta có thể thấy rõ tại Điều 233 BLTTDS, thì nội dung tranh luận và căn cứ tranh luận là khác nhau. Nội dung tranh luận là những vấn đề mà các bên còn mâu thuẫn, tranh chấp cần làm sáng tỏ để tìm ra sự thật của vụ án. Căn cứ tranh luận là cơ sở để các bên đương sự lập luận cho những đề xuất của mình về việc giải quyết vụ án, ví dụ như tài liệu, chứng cứ đã thu thập được và đã được xem xét, kiểm tra tại phiên toà hay kết quả việc hỏi tại phiên toà.Từ đó, nếu BLTTDS quy định chung chung cả nội dung và căn cứ tranh luận trong cùng một Điều 233 như hiện tại, thì những đương sự không có kiến thức chuyên môn hay trình độ hiểu biết pháp luật sẽ rất khó khăn để xác định mình phải tranh luận cái gì và tranh luận thế nào tại phiên toà. Vì vậy, theo em nên quy định rõ ràng thành điều luật cụ thể về nội dung tranh luận, và căn cứ tranh luận, từ đó sẽ giúp đương sự có điều kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, mặt khác sẽ hướng việc tranh luận vào đúng trọng tâm, làm hiệu quả của hoạt động xét xử cao hơn và giải quyết vụ án được nhanh chóng, dễ dàng.

4) Về phát biểu của Kiểm sát viên ở quá trình tranh luận tại phiên toà sơ thẩm

Theo quy định tại Điều 234 BLTTDS về phát biểu của Kiểm sát viên. Theo quy định này thì kiểm sát viên là người phát biểu quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án sau cùng trước khi hội đồng xét xử tuyên bố nghỉ vào nghị án. Sau khi đại diện viện kiểm sát trình bày kết luận của mình thì những người tham gia tranh luận không phát biểu gì thêm. Như đã phân tích (mục 4 phần I trang 7), thì theo em Kiểm sát viên cũng chỉ là một luồng ý kiến cá nhân, tuy là thay mặt VKS nhưng đôi khi cũng không có được sự khách quan cần thiết cho việc xét xử vụ án, mà có thể vô tình sẽ là có lợi cho nguyên đơn hoặc bị đơn. Vì vậy, theo em nên bổ sung quy định ở phần “Tranh luận tại phiên toà” với nội dung cho phép các bên đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích của các bên có thể tranh luận với Kiểm sát viên về những vấn đề chưa rõ, hay có mâu thuẫn với nhau, từ đó tạo điều kiện để đạt được kết quả tốt nhất đối với hoạt động xét xử giải quyết vụ án.

KẾT LUẬN

Phiên toà sơ thẩm dân sự là phiên xét xử vụ án dân sự lần đầu của Toà án. Sau khi Phiên toà sơ thẩm kết thúc, bản án, quyết định sơ thẩm được tuyên sẽ chưa có hiệu lực pháp luật ngay mà còn một thời hạn để các đương sự có thể kháng cáo, viện kiểm sát có thể kháng nghị. Nếu có kháng cáo hoặc kháng nghị đối với bản án, quyết định sơ thẩm thì toà án cấp trên trực tiếp sẽ tiến hành xét xử lại vụ án.

Em xin được kết thúc bài viết của mình ở đây, do còn thiếu sót nhiều về kiến thức nên không thể tránh khỏi sự hạn chế trong nội dung phân tích của bài, rất mong sẽ nhận được sự thông cảm của các quý thầy cô!

Mục lục:

MỞ ĐẦU

NỘI DUNG

I.Thủ tục tiến hành phiên toà sơ thẩm dân sự và thực tiễn thực hiện

1) Chuẩn bị khai mạc phiên toà sơ thẩm

2) Thủ tục bắt đầu phiên toà sơ thẩm

3) Thủ tục hỏi tại phiên toà sơ thẩm

4) Tranh luận tại phiên toà sơ thẩm

5) Nghị án và tuyên án

II.Một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về thủ tục tiến hành phiên toà sơ thẩm

1) Về bảo đảm tính khách quan của người làm chứng

2) Về nội dung xem xét việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu

3) Về nội dung tranh luận tại phiên toà sơ thẩm

4) Về phát biểu của Kiểm sát viên ở quá trình tranh luận tại phiên toà sơ thẩm

KẾT LUẬN

Chú thích:

  • BLTTDS      :            Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004
  • HĐXX :            Hội đồng xét xử
  • VKS : Viện kiểm sát

Danh mục tài liệu tham khảo:

  • Giáo trình Luật Tố tụng Dân sự Việt Nam_Trường Đại học Luật Hà Nội_Nhà xuất bản Tư pháp
  • Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004
  • Bộ luật dân sự năm 2005
  • Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành các quy định trong phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại toà án cấp sơ thẩm” của Bộ luật tố tụng dân sự
  • Bùi Thị Huyền, “Phiên toà sơ thẩm dân sự, những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận án tiến sĩ Luật học, Hà Nội 2008
1900.0191