Đánh giá các quy định của BLDS năm 2005 về năng lực hành vi dân sự cá nhân
-
So sánh các quy định về năng lực hành vi dân sự của cá nhân trong BLDS năm 2005 với BLDS năm 1995
Những quy định về NLHVDS của cá nhân được quy định tại BLDS năm 2005 cơ bản kế thừa và phát huy tinh thần của các quy định về NLHVDS cá nhân trong BLDS năm 1995. NLHVDS của cá nhân được quy định từ Điều 19 tới Điều 25 BLDS năm 1995. Trong đó các quy định tại Điều 17, Điều 18, Điều 21, Điều 23 BLDS năm 2005 được giữ nguyên từ các quy định tại Điều 19, Điều 20, Điều 23, Điều 25 BLDS năm 1995, cho thấy, về cơ bản các nhà làm luật vẫn công nhận NLHVDS cúa cá nhân là việc cá nhân đó bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trong các quan hệ pháp luật dân sự; và thừa nhận quan điểm về người chưa thành niên và người thành niên.
Điều 22 BLDS năm 1995 quy định về “Năng lực hành vi dân sự của người chưa thành niên từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi” như sau:
“1. Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi khi xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.
2.Trong trường hợp người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có tài sản riêng đủ để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ, thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà không đòi hỏi phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.” So với Điều 20 BLDS năm 2005, thì Điều 20 có sửa đổi bổ sung thêm cụm từ “hoặc pháp luật có quy định khác” tại khoản 1 và về việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự của người từ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi thì “cần phải” thay từ “phải” trong quy định tại Điều 22 BLDS năm 1995. Qua đây ta thấy, BLDS năm 2005 quy định cụ thể hơn, rõ ràng hơn và có phần mở rộng hơn, điều này giúp cho việc áp dụng thực tiễn được thuận lợi và tránh những bất cập do thiếu xót hay luật không quy định. Ngoài ra, BLDS 2005 nhấn mạnh hơn về việc khi người không có NLHVDS từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự mà không đòi hỏi cần phải có sự đồng ý, thông qua của người đại diện theo pháp luật của người đó, trừ những trường hợp pháp luật có quy định khác.
Ngoài ra, khoản 2 Điều 24 BLDS năm 1995 được sửa đổi, bổ sung thành khoản 2 Điều 22 BLDS năm 2005. Theo đó, các nhà làm luật đã thêm từ “phải” khi quy định việc xác lập, thực hiện các giao dịch của người mất NLHVDS, qua đây cũng nhấn mạnh hơn về vai trò của người đại diện theo pháp luật của người mất NLHVDS, cũng như quy định chặt chẽ hơn về vấn đề xác lập thực hiện các GDDS đối với những người này.
-
Đánh giá các quy định về năng lực hành vi dân sự của cá nhân trong BLDS năm 2005
“Bộ luật dân sự 2005 (được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2006) ra đời trong bối cảnh đất nước đổi mới được gần 20 năm, thay thế cho Bộ luật dân sự 1995 đã bị lạc hậu so với sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động kinh tế và các giao lưu trong đời sống xã hội sau khi công cuộc đổi mới được phát động năm 1986 đã thúc đẩy một cách mạnh mẽ đòi hỏi phải có một BLDS mới đáp ứng yêu cầu của thực tiễn”[3]. Nhìn chung, qua 10 năm thi hành, BLDS 2005 đã có tác động rất tích cực vào sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước nói chung và trong hoạt động của ngành Tòa án nói riêng. Các nội dung quy định về NLHVDS của cá nhân trong BLDS là tiền đề để cá nhân xác lập, thực hiện các GDDS, tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự cũng như làm căn cứ để giải quyết các tranh chấp có liên quan tới NLHVDS của cá nhân trong hoạt động của Tòa án. Bên cạnh đó, các quy định về NLHVDS còn có những ý nghĩa quan trọng liên quan đến cá nhân, gia đình và xã hội. Như trong Điều 23 về hạn chế NLHVDS, quy định này có ý nghĩa to lớn về mặt xã hội, đặc biệt nó có tác dụng sâu sắc trong việc phòng chống các tệ nạn xã hội. Việc áp dụng quy định này, thông qua Toà án sẽ tác động mạnh mẽ đến những người vô trách nhiệm với gia đình và xã hội. Hay Điều 20 BLDS ghi nhận NLHVDS của người chưa thành niên từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi, quy định tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân khi có tài sản đủ để đảm bảo thực hiện, có thể chủ động, độc lập xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự mà không phụ thuộc vào người đại diện, tạo sự đồng bộ giữa các ngành luật trong hệ thống pháp luật của nước ta, góp phần thúc đẩy giao lưu dân sự.
Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực nêu trên của BLDS năm 2005 về NLHVDS của cá nhân, trong quá trình áp dụng, BLDS đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập nhất định. Việc nghiên cứu làm rõ một số hạn chế, bất cập, qua đó, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung BLDS có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn hiện nay.
Những bất cập, hạn chế của quy định về NLHVDS của cá nhân hiện nay:
+ Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: Chủ thể cá nhân tham gia quan hệ pháp luật dân sự phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự. Yếu tố năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là điều đương nhiên, về cơ bản không có vấn đề gì cần phải quan tâm xem xét. Nhưng năng lực hành vi dân sự của cá nhân thì còn rất nhiều điểm bất hợp lý.
Vấn đề bất hợp lý lớn nhất là, Điều 9 về “Điều kiện kết hôn”, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 lại quy định, nữ chỉ cần “từ” 18 tuổi trở lên, tức là chưa thành niên, chưa có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, lại đã được phép kết hôn.Ngoài ra, Bộ luật Dân sự còn thiếu hẳn những quy định về các trường hợp người đã thành niên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự do bệnh tật hoặc nhược điểm vể thế chất, tinh thần, nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự. Và còn bỏ ngỏ việc quy định năng lực hành vi của người chưa thành niên từ đủ 9 tuổi trở lên (để làm căn cứ pháp lý cho các trường hợp quy định trong 6 điều tại Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000) và từ đủ 14 tuổi trở lên (để làm căn cứ pháp lý cho các trường hợp quy định về cấp Chứng minh nhân dân theo Nghị định số 05/1999/NĐ-CP; chịu trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự năm 1999; quản lý, định đoạt tài sản riêng của con theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; bị bắt, tạm giữ, tạm giam theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003; khai báo việc lưu trú theo Luật Cư trú năm 2006; xác minh về nhân thân theo Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008; bị xử phạt vi phạm hành chính theo Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012; học nghề, tập nghề theo Bộ luật Lao động năm 2012. Mặc dù trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã có sự sửa đổi trong những bất cập có liên quan đến lĩnh vực hôn nhân, nhưng có thể thấy, trong một thời gian dài, bất cập này đã xảy ra, và gây ra nhiều tranh cãi khi có những vụ việc pháp lí phát sinh liên quan đến nó. Nhưng những bất cập ảnh hưởng tới các lĩnh vực khác vẫn là bất cập, hạn chế cần khắc phụ.
+ Quy định tại khoản 1 Điều 20 đặt ra một số vấn đề bất cập như sau: Những trường hợp GDDS của người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi chưa được xác lập, thực hiện bằng hành vi của mình, thì các giao dịch đó cần được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật của người đó. Quy định này không rõ ràng, có thể hiểu theo nhiều cách hiểu khác nhau dẫn tới việc áp dụng pháp luật theo các cách không giống nhau, gây ra sự thiếu đồng bộ. Cụ thể như sau: Thứ nhất, có thể hiểu là các giao dịch dân sự chỉ cần có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật còn việc xác lập và thực hiện giao dịch là hành vi của cá nhân từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi. Nếu hiểu theo cách này thì việc xác định người đại diện có đồng ý hay không là rất khó, nhất là đối với các giao dịch được xác lập bằng miệng. Ví dụ như: A mười một tuổi dùng tiền tiết kiệm của mình để đi mua điện thoại di động trị giá 3 triệu đồng. A hỏi bố mẹ, và được sự đồng ý của bố mẹ rồi mới đi mua. Như vậy, trong trường hợp này, nếu xảy ra khúc mắc trong việc mua bán điện thoại, thì rất khó để giải quyết, vì việc xác nhận A có được bố mẹ đồng ý cho thực hiện hành vi hay không là rất khó chứng minh.
Thứ hai, có thể hiểu việc người đại diện đồng ý tức là người đại diện bằng hành vi của mình xác lập và thực hiện giao dịch đó. Cách hiểu này có vẻ hợp lý hơn khi căn cứ vào khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của người đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi, khi những người này chưa đủ điều kiện tham gia vào các giao dịch dân sự trên thực tế. Việc người đại diện tham gia vào giao dịch sẽ đảm bảo quyền lợi cho họ và cho các chủ thể khác trong quan hệ pháp luật dân sự. Tuy nhiên, nếu hiểu theo nghĩa này, thì việc áp dụng thực tế sẽ không phù hợp, vì khi ở độ tuổi từ mười lăm tuổi đến dưới mười tám tuổi, thời gian cũng như việc xác lập giao dịch diễn ra chủ yếu trong thời gian người đó tới trường học, cho nên cha mẹ sẽ rất khó để xác lập giao dịch thay cho con mình được.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 20 này, có thể hiểu là pháp luật chỉ công nhận những GDDS trong phạm vi tài sản riêng của người từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi xác lập, thực hiện bằng hành vi của mình, còn những giao dịch khác thì người này vẫn phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật ví dụ như học nghề, hay giao kết hợp đồng lao động…
+ Về người không có NLHVDS, trước hết Điều 21 BLDS quy định “người chưa đủ sáu tuổi là người không có NLHVDS”. Về mặt thực tế, thì người dưới sáu tuổi là những người chưa đủ nhận thức và chịu trách nhiệm về hành vi của mình, hành vi của những người này vẫn mang tính bản năng, phản xã chứ không theo ý chí, lý trí. Điều này là do sự chưa phát triển về mặt lí trí và ý chí chứ không phải những người này không có khả năng nhận thức theo ý chí và lí trí. Lứa tuổi dưới sáu tuổi cũng đã có khả năng nhận thức được thế giới xung quanh, khả năng này sẽ dần dần phát triển khi họ lớn lên thông qua tiếp xúc giao tiếp với thế giới xung quanh, từ đó, khả năng nhận thức theo ý chí và lí trí sẽ dần hoàn thiện cũng như NLHVDS của họ cũng dần hoàn thiện hơn. Bên cạnh đó, về mặt pháp lí, pháp luật cũng thừa nhận rằng, NLHVDS hoàn thiện dần theo độ tuổi, khả năng nhận thức của người đó. Do đó, không thể nói người dưới sáu tuổi không có NLHVDS được mà cần phải ghi nhận họ là người chưa có NLHVDS. Thuật ngữ “ chưa có” và “ không có” là hoàn toàn khác nhau, vì “chưa có” là có thể hoàn thiện, nâng cao, phát triển dần theo độ tuổi, khả năng nhận thức sẽ dần tăng lên và hoàn thiện hơn, còn “không có” là tình trạng không có NLHVDS và khả năng sẽ có NLHVDS là không xảy ra. Còn đối với người dưới sáu tuổi, thì ở thời điểm dưới sáu tuổi thì họ không có NLHVDS nhưng có thể sẽ có trong tương lai. Nếu người dưới sáu tuổi bị mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác mà không có năng lực nhận thức thì mới được coi là không có NLHVDS. Qua đây, cho thấy sự hạn chế trong kĩ thuật lập pháp của BLDS năm 2005 khi sử dụng từ ngữ, cần có sự xem xét phân tích kĩ lưỡng trước khi sử dụng từ ngữ luật pháp, vì một từ dùng sai có thể đưa ra nhiều cách hiểu khác nhau.
Bên cạnh đó, cách quy định tại Điều 23 này còn tạo ra hai cách hiểu khác nhau: Cách hiểu thứ nhất: Người dưới sáu tuổi xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự chính là việc xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự, để những giao dịch này có hiệu lực thì cần phải thông qua hành vi của người đại diện theo pháp luật của họ. Cách hiểu này rõ ràng không chính xác, không bao quát được hết các trường hợp phát sinh quyền và nghĩa vụ của người dưới sáu tuổi, nhưng có một câu hỏi được đặt ra là “trong những trường hợp quyền và nghĩa vụ dân sự phát sinh từ những căn cứ không phải là giao dịch dân sự thì những người chưa đủ sáu tuổi sẽ tham gia theo phương thức nào?”[4]. Cách hiểu thứ hai: Người chưa đủ sáu tuổi thì không thể xác lập, thực hiện những quyền và nghĩa vụ dân sự phát sinh từ những căn cứ khác với giao dịch dân sự. Có thể hiểu là họ chỉ có những quyền và nghĩa vụ dân sự này theo năng lực pháp luật dân sự chứ không thể thể xác lập, thực hiện chúng trên thực tế khi chưa đủ sáu tuổi, kể cả thông qua hành vi của người đại diện theo pháp luật. Cách hiểu này hiển nhiên không chính xác và đi ngược lại với ý nghĩa của các quy định về năng lực pháp luật dân sự cá nhân mà BLDS đã quy định. Như vậy, Điều 21 cần sửa đổi để phù hợp với các quy định khác về năng lực pháp luật dân sự và NLHVDS của cá nhân.
+ Tình trạng mất NLHVDS được quy định tại Điều 22 BLDS năm 2005 có điểm bất cập, bất hợp lí ở thủ tục khôi phục NLHVDS sau khi căn cứ tuyên bố cá nhân mất NLHVDS không còn, đó là quy định người có quyền yêu cầu Tòa án hủy quyết định tuyên bố mất NLHVDS có thể chính là người đang bị tuyên bố mất NLHVDS. Tuy nhiên, rõ ràng khi yêu cầu Tòa án hủy quyết định quyết định tuyên bố mất NLHVDS thì quyết định tuyên bố mất NLHVDS của người bị tuyên bố mất NLHVDS đó vẫn còn hiệu lực, người đó không thể xác lập, thực hiện các GDDS nói riêng và các QHPLDS nói chung bằng hành vi của mình một cách độc lập. Do đó, người đó không thể tự mình yêu cầu Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố mất NLHVDS của cá nhân đối với mình được.
Bên cạnh đó, về hậu quả pháp lí của NLHVDS đối với người mất NLHVDS chỉ quy định trong việc xác lập, thực hiện các GDDS được thông qua hành vi của người địa diện theo pháp luật. Như vậy, sẽ không bao trùm hết nội hàm của các căn cứ phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự. Hay nói cash khác, BLDS năm 2005 chỉ dừng lại ở việc quy định về hạn chế tham gia giao dịch, còn các hành vi khác không quy định đến. Ví dụ như : các quyền về tài sản như quyền quản lí tài sản, quyền đòi tài sản do người khác chiếm giữ không có căn cứ pháp luật,… Do đó, đây là điểm cần sửa đổi khi soạn thảo, ban hành Bộ luật mới.
+ Quy định về hạn chế NLHVDS cũng có một số điểm hạn chế như sau: Điều 23 BLDS ghi nhận, nghiện chất kích thích là điều kiện cơ bản để xác định tình trạng hạn chế NLHVDS của cá nhân. Tuy nhiên, BLDS lại không có bất cứ quy định nào xác định, liệt kê hoặc nêu ra khái niệm về chất kích thích là những chất nào. Điều này làm dẫn tới hậu quả là việc cá nhân bị tuyên bố bị hạn chế NLHVDS mà có thể không có cơ sở pháp lí rõ ràng. Bên cạnh đó, nếu như ở Điều 22 BLDS quy định khi tuyên bố cá nhân bị mất NLHVDS thì Tòa án “ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định” , nhưng với trường hợp hạn chế NLHVDS quy định tại Điều 23 BLDS thì việc tuyên bố chỉ phụ thuộc vào yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan và quyết định của Tòa án. Do đó, việc không quy định rõ thế nào là chất kích thích cũng như việc không cần tới sự kết luận của cơ quan, tổ chức chuyên môn y tế sẽ dẫn tới sự chủ quan, duy ý chí của những người có quyền yêu cầu và của Tòa án. Quyết định của Tòa án sẽ phụ thuộc hoàn toàn vào nhận định chủ quan của người tiến hành tố tụng, đồng thời quy định này là cơ sở dẫn tới những quyết định khác nhau của các Tòa án khác nhau về những cá nhân có mức độ nghiện và phá tán tài sản trên thực tế tương tự nhau.
-
Đề xuất sửa đổi các quy định về năng lực hành vi dân sự của cá nhân
Qua những phân tích ở trên, có thể thấy, các quy định về NLHVDS của cá nhân có những điểm bất cập, hạn chế cần phải sửa đổi, thay đổi. Trước tiên, cần cải thiện, nâng cao kĩ thuật lập pháp để những quy định được đưa ra phù hợp với thực tiễn đời sống và thể hiện đúng tinh thần của pháp luật Việt Nam. Các từ ngữ được sử dụng cần được phần tích, xem xét kĩ lưỡng. Có thể thay đổi quy định về “không có năng lực hành vi dân sự” thành “ người chưa có năng lưc hành vi dân sự” đối với người dưới sáu tuổi hoặc quy định khác phù hợp và đáp ứng các quyền và nghĩa vụ dân sự mà người dưới sáu tuổi được hưởng.
Bộ luật Dân sự mới cần quy định rõ ràng hơn, nhằm đưa ra các cách hiểu đúng cho các trường hợp năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ, mất và hạn chế NLHVDS của cá nhân. Trong đó, cần quy định rõ ràng về việc người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện các giao dịch cho cá nhân trong những trường hợp đó, đồng thời mở rộng các quy định hơn để tránh thiếu xót khi BLDS năm 2005 chỉ nói đến việc người đại diện theo pháp luật của cá nhân xác lập, thực hiện thay cho cá nhân chỉ trong các GDDS như quy định tại Điều 20, Điều 21, Điều 23 BLDS.
Bên cạnh đó, cần có thêm quy định về nghiện chất kích thích, và thêm quy định về việc giám định tình trạng NLHVDS của cá nhân trước khi tuyên bố người đó bị hạn chế NLHVDS. Có thể quy định rõ chất kích thích là gì, bao gồm những loại nào. Ví dụ như, các loại Amphetamine, thuốc lắc, Cocaine, Một số thuốc chống trầm cảm, thuốc chống tiết Acetylcholine,…. Để có sự đồng bộ trong các quyết định của Tòa án đối với các trường hợp tương tự nhau, thì cần có sự quy định rõ ràng, về điều kiện cũng như căn cứ cơ sở để ra các quyết định đối với cá nhân trong tình trạng bị hạn chế NLHVDS. Qua đây, vừa đảm bảo công minh, rõ ràng, vừa thể hiện kĩ thuật lập pháp cũng như để pháp luật được áp dụng một cách có hiệu quả.
Tham khảo thêm:
- Phân tích Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản
- Phân tích Tội cưỡng đoạt tài sản
- Phân tích Tội cướp giật tài sản
- Phân tích Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
- Phân tích Tội trộm cắp tài sản
- Phân tích Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
- Phân tích Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
- Phân tích Tội chiếm giữ trái phép tài sản
- Phân tích Tội sử dụng trái phép tài sản
- Phân tích Tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản