Hành vi nguy hiểm cho xã hội
Hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi đã gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ trong các tội xâm phạm sở hữu chủ yếu là quan hệ tài sản, ngoài ra còn có các quan hệ khác như trật tự an, an toàn xã hội, tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm hoặc những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, nhưng quan hệ về tài sản là quan hệ chủ yếu và là đặc trưng của các tội xâm phạm sở hữu. Nếu thiệt hại gây ra hoặc đe doạ gây ra không đáng kể thì không phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội và không bị coi là hành vi tội phạm. Ví dụ: Trộm cắp chưa đến 500.000 đồng mà chưa gây hậu quả nghiêm trọng hoặc chưa bị xử lý hành chính về hành vi chiếm đoạt, chưa bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án nhưng đã được xoá án tích thì không coi là tội phạm.
Việc đánh giá hành vi nào là hành vi nguy hiểm cho xã hội phụ thuộc vào tình hình phát triển của xã hội và yêu cầu đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Nếu trước đây, hành vi trộm cắp dưới 500.000 đồng được coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội và người thực hiện hành vi này có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản, thì hiện nay, hành vi này không bị coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội nữa. Ngược lại có hành vi trước đây chưa được coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhưng nay lại coi là nguy hiểm cho xã hội và được coi là tội phạm. Ví dụ: Hành vi sử dụng trái phép tài sản của công dân, trước đây chưa được coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội, nay hành vi này được coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội và bị coi là tội phạm.
Hành vi nguy hiểm cho xã hội phải được quy định trong Bộ luật hình sự
Việc nhà làm luật quy định chỉ những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự mới là tội phạm là nhằm gạt bỏ việc áp dụng nguyên tắc tương tự. Chỉ có Bộ luật hình sự mới được quy định tội phạm, ngoài Bộ luật hình sự ra không có văn bản pháp luật nào khác được quy định tội pham. Trước khi Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành, đã có một thời gian dài các Toà án vận dụng đường lối chính sách hiện hành để xét xử một số hành vi mà pháp luật hình sự không quy định là tội phạm.
Sau khi Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành, cũng có nhiều ý kiến cho rằng, việc nhà làm luật quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội nhất thiết phải được quy định trong Bộ luật hình sự sẽ dẫn đến tình trạng hình sự hoá một cách tuyệt đối. Trong khi đó ở nhiều nước trên thế giới chỉ quy định “tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong luật hình sự” hoặc “tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự“. Mặt khắc, tại Điều 2 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định: “Chỉ người nào phạm một tội đã được luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự“, trong khi đó khái niệm tội phạm quy định tại Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1985 lại quy định ” tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự…” Vậy là giữa khái niệm tội phạm và cơ sở trách nhiệm hình sự nhà làm luật đã quy định không thống nhất, dẫn đến việc hiểu và giải thích rất khác nhau giữa khái niệm tội phạm với cơ sở trách nhiệm hình sự. Trong quá trình soạn thảo Bộ luật hình sự năm 1999, cũng có ý kiến đề nghị Bộ luật hình sự nên quy định: ” Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong luật hình sự.” ý kiến này có nhân tố hợp lý, tránh sự sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự một cách triền miên, nhưng lại không bảo đảm tính thống nhất, tập trung, dễ dẫn đến tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn giữa văn bản này với văn bản khác, nhất là trong điều kiện xây dựng một Nhà nước pháp quyền thì con người với đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình, được biết mình được làm gì, không được làm gì, nhất là các quan hệ pháp luật hình sự lại liên quan trực tiếp đến những quyền cơ bản nhất của con người kể cả quyền sống. Vì vậy, luật hình sự cần được pháp điển hoá thành Bộ luật hoàn chỉnh, nơi duy nhất quy định về tội phạm và hình phạt, bảo đảm tốt nhất cho việc thực hiện chính sách hình sự, bảo đảm quyền công dân, bảo đảm tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Sau hơn mười năm thi hành và qua nhiều lần thảo luận, một lần nữa Bộ luật hình sự năm 1999 vẫn khẳng định hành vi nguy hiểm cho xã hội phải được quy định trong Bộ luật hình sự mới là tội phạm, đồng thời sửa đổi Điều 2 của Bộ luật hình sự cho phù hợp với khái niệm tội phạm quy định tại Điều 8 với nội dung ” Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự“.
Tham khảo thêm:
- Phân tích Tội hành hạ người khác
- Phân tích Tội hiếp dâm
- Phân tích Tội hiếp dâm trẻ em
- Phân tích Tội cưỡng dâm
- Phân tích Tội cưỡng dâm trẻ em
- Phân tích Tội giao cấu với trẻ em
- Phân tích Tội dâm ô đối với trẻ em
- Phân tích Tội lây truyền HIV cho người khác
- Phân tích Tội cố ý truyền HIV cho người khác
- Phân tích Tội mua bán phụ nữ