Phân tích Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN (ĐIỀU 140)

Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là vay, mượn, thuê tài sản của người kháchoặcnhận được tài sản của người khácbằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản tài sản đó, hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

Lần đầu tiên, nhà làm luật quy định các tình tiết là dấu hiệu định tội trong cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định: “người nào lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì…” mà không quy định như khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999. Ngoài những tình tiết đặc trưng về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999 còn quy định những tình tiết là yếu tố định tội làm ranh giới phân biệt giữa hành vi tội phạm với hành vi chưa phải là tội phạm.

Việc nhà làm luật quy định được các dấu hiệu định tội trong điều luật cũng từ thực tiễn xét xử loại tội phạm này trong hơn 10 năm thi hành Bộ luật hình sự năm 1985, đặc biệt vào những năm cuối của thập kỷ 90 ( 1997-1999) tình trạng các cơ quan tiến hành tố tụng ở nhiều địa phương đã “hình sự hoá” các quan hệ dân sự, kinh tế; nhiều người bị kết án oan về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản mà lẽ ra họ chỉ là bị đơn dân sự trong vụ án dân sự. Trước một thực trạng như vậy, đòi hỏi các cơ quan soạn thảo Bộ luật hình sự năm 1999 phải đưa vào trong cấu thành những dấu hiệu đặc trưng của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản .

Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 140 Bộ luật hình sự là tội được nhập từ tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân quy định tại Điều 158, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa quy định tại Điều 135 Bộ luật hình sự năm 1985. So với Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999 nói chung nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 về tội phạm này, trừ khoản 4 của Điều 140 có mức cao nhất của khung hình phạt nặng hơn tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân, vì mức hình phạt cao nhất của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân có mức hình phạt cao nhất là hai mươi năm tù. Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều quy định mới hơn, đặc biệt trong cấu thành cơ bản, nhà làm luật quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt làm ranh giới giữa hành vi được coi là tội phạm với hành vi chỉ bị xử phạt hành chính; các tình tiết định khung hình phạt cũng được quy định cụ thể hơn trước. Hình phạt bổ sung cũng được quy định ngay trong điều luật.

CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM

  1. Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm

Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, chủ thể của tội phạm cũng tương tự như đối với tội xâm phạm sở hữu khác. Tuy nhiên, người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 140 Bộ luật hình sự, vì khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự là tội phạm ít nghiêm trọng và khoản 2 Điều 140 Bộ luật hình sự là tội phạm nghiêm trọng, mà theo quy định tại khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đối với người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cần chú ý độ tuổi của người phạm tội và các tình tiết định khung hình phạt. Nếu người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 140 Bộ luật hình sự thì chỉ cần xác định người phạm tội đủ 14 tuổi là đã phải chịu trách nhiệm hình sự, nhưng nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 140 Bộ luật hình sự thì người phạm tội phải đủ 16 tuổi mới phải chịu trách nhiệm hình sự.

  1. Các dấu hiệu về khách thể của tội phạm

Khách thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng tương tự như các tội có tính chất chiếm đoạt khác, nhưng tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản không xâm phạm đến quan hệ nhân thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu, đây cũng là một điểm khác với các tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản, đặc điểm này được thể hiện trong cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nhà làm luật không quy định thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ là tình tiết định khung hình phạt. Vì vậy, nếu sau khi đã chiếm đoạt được tài sản, người phạm tội bị đuổi bắt mà có hành vi chống trả để tẩu thoát, gây chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội còn phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người hoặc tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

  1. Các dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm

Hành vi khách quan

Do cấu tạo của Điều 140 và đặc điểm của tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản, nên hành vi khách quan của tội phạm này có những điểm chú ý sau:

– Việc chuyển giao tài sản từ người bị hại sang người phạm tội xuất phát từ một hợp đồng hợp pháp như vay, mượn, thuê tài sản. Ví dụ: M ký hợp đồng mua của Công ty xuất nhập khẩu Y 200 chiếc ti vi Sam-sung với tổng giá trị 400 triệu đồng; M đã nhận đủ 200 chiếc ti vi, nhưng không chịu thanh toán hết tiền cho Công ty.

– Sau khi đã nhận được tài sản, người phạm tội mới dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản đang do mình quản lý; về thủ gian dối cũng được thể hiện bằng những hành vi cụ thể nhằm đánh lừa chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản như đối với thủ đoạn gian dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; Ví dụ: A vay của B 10 lượng vàng với lãi xuật 1%/ tháng; khi vay A có viết giấy biên nhận cho B, nhưng sau đó B tìm cách mượn lại giấy biên nhận và chữa lại thanh 1 lượng vàng. Hết hạn, A không trả vàng cho B, B kiện A ra Toà án. Khi Toà án thụ lý vụ kiện, A khai chỉ mượn B 1 lượng vàng và xuất trình giấy biên nhận, còn B khai cho A mượn 10 lượng vàng và yêu cầu Toà án cho giám định tờ giấy biện nhận, kết quả giám định đã kết luận tờ giấy biện nhận đã bị tẩy xoá sửa chữa từ 10 lượng vàng thành 1 lượng vàng, nên Toà án đã chuyển hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra khởi tố A về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

– Nếu người phạm tội không dùng thủ đoạn gian dối mà sau khi đã nhận tài sản một cách hợp pháp rồi bỏ trốn với ý thức không thanh toán, không trả lại tài sản cho chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản ( ý thức chiếm đoạt tài sản ) thì cũng là hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Khi đánh giá hành vi bỏ trốn của người phạm tội phải xem xét một cách khách quan, toàn diện, nếu người phạm tội bỏ trốn hoặc tránh mặt chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản vì nguyên nhân khác thì không coi là bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản. Ví dụ: Chị Đoàn Thị Hoan vay của chị Lương Thị Vinh nhiều lần và những lần vay trước chị Hoan đều trả đủ cả tiền gốc và tiền lãi cho chị Vinh, nhưng sau đó chị Hoan vay 9 lần của chị Vinh với số tiền 345 triệu, chị Hoan đã trả cho chị Vinh được 102 triệu, còn 243 triệu, chị Hoan cũng đã cố gắng trả cho chị Vinh được 157 triệu, còn 90 triệu chị Hoan mất khả năng thanh toán. Về số tiền 243 triệu, theo chị Hoan thì chị cho Nguyễn Thị Thìn vay lại, Nguyễn Thị Thìn cầm tiền của chị Hoan và bỏ trốn, chị Hoan đã báo cho Cơ quan điều tra về việc chị bị chị Thìn chiếm đoạt tiền và bỏ trốn; cơ quan điều tra đã xác minh và thấy việc trình báo của chị Hoan là có căn cứ nên đã quyết định khởi tố vụ án và ra lệnh truy nã đối với Nguyễn Thị Thìn. Do không có tiền trả cho chị Vinh và sợ nếu về Hải Phòng thì chị Vinh sẽ báo Công an bắt, nên chị Hoan phải ở nhờ nhà em gái ở Hà Nội, nhưng đến tết nguyên đán, vì nhớ con nên chị Hoan về Hải Phòng thì chị Vinh đã báo Công an bắt chi Hoan. Trong trường hợp này, tuy chị Hoan có tránh mặt chủ sở hữu nhưng việc tránh mặt này không nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản mà vì sợ chị Vinh báo Công an bắt mình, hơn nữa chị Hoan không có tiền trả chị Vinh là do chị Hoan bị người khác chiếm đoạt.19

Nếu người phạm tội không có hành vi gian dối, không bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản nhưng lại dùng tài sản đó (tài sản nhận từ chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản một cách hợp pháp) vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản thì cũng bị coi là lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Hiểu như thế nào là dùng tài sản vào mục đích bất hợp pháp là một vấn đề không đơn giản, nếu theo khái niệm thông thường thì “bất hợp pháp” là không đúng với pháp luật không phân biệt đó là pháp luật gì và nếu hiểu bất hợp pháp theo nghĩa rộng như vậy thì hấu hết các trường hợp mất khả năng thanh toán nợ cho chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản đều là hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử đã không coi việc sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp theo khai niệm rộng như trên, mà chỉ coi những trường hợp dùng tài vào việc thực hiện tội phạm thì mới coi là bất hợp pháp với ý nghĩa là dấu hiệu cấu thành tội phạm như: dùng tiền vay được để hối lộ, để buôn lậu, để mua bán hàng cấm, để mua bán ma tuý, vũ khĩ quân dụng, chất độc, chất cháy… Ngoài ra, trong một số trường hợp do làm ăn thua lỗ đã mất khả năng thanh toán, nhưng vẫn tiếp tục vay mượn tiền hoặc tài sản rồi dùng tiền hoặc tài sản đó trả nợ cũ, hoặc dùng tài sản vay được ăn tiêu, mua sắm vật dụng trong gia đình, mua đất xây nhà… Nếu không dùng tài sản vào mục phạm tội mà dùng vào mục đích bất hợp pháp khác thì phải xem xét đánh giá từng trường hợp cụ thể, để xác định hành vi đó đã cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản chưa. Cần phân biệt, dùng tài sản vào mục đích bất hợp pháp với việc sử dụng tài sản không đúng mục đích đã thoả thuận khi vay, mượn. Ví dụ: Khi vay tiền, nói là để phát triển chăn nuôi ( nuôi gà công nghiệp), nhưng sau khi vay được tiền lại không nuôi gà nữa mà dùng tiền vay được vào việc nuôi tôm sú, nhưng vì không có kỹ thuật nên bị thua lỗ dẫn đén không có khả năng thanh toán thì hành vi của người phạm tội không cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là phạm tội sử dụng trái phép tài sản quy định tại Điều 142 Bộ luật hình sự.

Hậu quả

Hậu quả của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là thiệt hại về tài sản mà cụ thể là giá trị tài sản bị chiếm đoạt. Theo khoản 1 của điều luật quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ 1.000.000 đồng trở lên mới cấu thành tội phạm, còn nếu tài sản bị chiếm đoạt dưới 1.000.000 đồng thì phải kèm theo điều kiện gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm mới cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Do đặc điểm của hành vi  lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là người phạm tội chiếm đoạt tài sản đang do mình quản lý, do đó nói chung không có trường hợp phạm tội chưa đạt, vì nếu người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản thì cũng có nghĩa là chưa có hành vi phạm tội. Tuy nhiên, trong trường hợp người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối, nhưng thủ đoạn đó không lừa được chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản nên không chiếm đoạt được tài sản đang do mình quản lý thì mới coi trường hợp phạm tội này là ở giai đoạn phạm tội chưa đạt ( đã dùng thủ đoạn gian dối nhưng vì những lý do khách quan nên người phạm tội không thực hiện được thủ đoạn đó).

Nếu người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản có trị dưới 1.000.000 đồng, nhưng chưa chiếm đoạt được thì chưa cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, vì dù có chiếm đoạt được cũng chưa cấu thành tội phạm huống hồ chưa chiếm đoạt được. Tuy nhiên, trong trường hợp người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản có giá trị dưới 1.000.000 và chưa chiếm đoạt được nhưng lại thuộc trường hợp đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về hành vi chiếm đoạt chưa được xoá án tích thì hành vi này đã cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, nhưng về đường lối xử lý, tuỳ từng trường hợp cụ mà quyết định việc có truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội hay không. Theo chúng tôi chỉ nên truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đã bị xử phạt hành chính nhiều lần về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án nhiều lần về tội chiếm đoạt hoặc họ là phần tử nguy hiểm, là đối tượng có nhiều tiền án, tiền sự, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp.

  1. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm

Cũng như đối với tội có tính chất chiếm đoạt, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng được thực hiện do cố ý. Mục đích của người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản.

Mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, ngoài mục đích chiếm đoạt, người phạm tội còn có thể có những mục đích khác cùng với mục đích chiếm đoạt hoặc chấp nhận mục đích chiếm đoạt của người đồng phạm khác thì người phạm tội cũng  bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

  1. Phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản không có các tình tiết định khung hình phạt

Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. So với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 158, khoản 1 Điều 135 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn khoản 1 Điều 135 và nặng hơn khoản 1 Điều 158. Vì vậy, đối với hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau ngày 4-1-2000 (ngày Chủ tịch nước công bố Bộ luật hình sự năm 1999), mới phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử thì không được áp dụng khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999, mà phải áp dụng khoản 1 Điều 158 Bộ luật hình sự năm 1985, nhưng nếu là hành vi lạm dụngtín nhiệm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa thì lại được áp dụng khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội.

Cấu thành cơ bản của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều tình tiết là yếu tố định tội, làm ranh giới phân biệt giữa hành vi phạm tội với hành vi chỉ bị xử lý hành chính, Vì vậy, khi xác định các tình tiết là yếu tố định tội này cần chú ý:

– Giá trị tài sản bị chiếm đoạt là giá thị trường tự do vào thời điểm xảy ra tội phạm, trong trường hợp không xác định được giá trị tài sản thì phải trưng cầu giám định (định giá).

– Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có giá trị dưới 1.000.000 đồng gây hậu qủa nghiêm trọng là trường hợp do thực hiện hành vi phạm tội mà đã gây ra những thiệt hại nghiêm trọng về vật chất hoặc tinh thần cho người bị hại hoặc cho xã hội. Căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự, qua thực tiễn xét xử, có thể coi những thiệt hại sau đây là hậu quả nghiêm trọng của hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản:

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người có tỷ lệ thương tật từ 21% đến 40%;

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người mà tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả mọi người từ 21% đến 40%;

– Gây thiệt hại về tải sản có giá trị từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

– Ngoài thiệt hại về sức khoẻ, tài sản, còn những thiệt hại khác như gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an ở địa phương, gây hoang mang cho nhân dân trong một địa bàn nhất định…Những thiệt hại này, tuỳ từng vụ án cụ thể mà các cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ vào tình hình cụ thể để xác định đã là hậu quả nghiêm trọng chưa, nếu tổng hợp các tình tiết mà xác định đã gây ra hậu quả  nghiêm trọng thì dù người phạm tội chỉ chiếm đoạt tài sản dưới 1.000.000 đồng cũng vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản.

– Đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt mà còn vi phạm là trường hợp, trước khi thực hiện hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, người phạm tội đã bị xử phạt hành chính cũng về hành vi chiếm đoạt tài sản bằng một trong các hình thức được quy định trong Pháp lệnh xử phạt hành chính do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dung mà chưa quá một năm; nếu người phạm tội bị xử phạt hành chính về hành vi khác ( không phải là hành vi chiếm đoạt) thì không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự;

– Đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản chưa được xoá án tích mà còn vi phạm là trường hợp, trước khi thực hiện hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tài sản, người phạm tội đã bị Toà án kết án về một trong các tội có tính chất chiếm đoạt nhưng chưa được xoá án tích theo quy định tại Điều 77 Bộ luật hình sự; nếu người phạm tội bị kết án về tội phạm khác ( không phải là tội chiếm đoạt) thì cũng không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự;

Khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999 là tội phạm ít nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung hình phạt là ba năm tù, nên đối với người phạm tội dưới 16 tuổi mà thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 140 thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự, Toà án cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu các tình tiết khác như nhau thì mức hình phạt đối với người phạm tội phụ thuộc vào những yếu tố sau:

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng phải bị phạt nặng hơn người phạm tội có ít hoặc không có tình tiết tăng nặng;

– Người phạm tội không có tình tiết giảm nhẹ phải bị phạt nặng hơn người phạm tội có tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ được phạt nhẹ hơn người có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội chiếm đoạt được tài sản phải bị phạt nặng hơn người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản; tài sản bị chiếm đoạt càng nhiều, hình phạt càng nặng;

– Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt có thể được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ. Việc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ phải đúng quy định tại Điều 31 Bộ luật hình sự về loại hình phạt này. Nếu không đủ điều kiện áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ thì có thể cho người phạm tội được hưởng án treo hoặc áp dụng mức thấp nhất của khung hình phạt ( ba tháng tù). Nếu người phạm tội đáng được khoan hồng nhưng chưa tới mức được miến trách nhiệm hình sự thì cũng có thể áp dụng hình phạt cảnh cáo đối với họ.

  1. Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 140 Bộ luật hình sự

Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có tổ chức

Cũng tương tự như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức. Tuy nhiên, không phải trường hợp lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có tổ chức nào cũng có đủ những người giữ vai trò như trên mà tuỳ từng trường hợp, có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành mà không có người xúi dục hoặc người giúp sức, nhưng nhất định phải có người tổ chức và người thực hành thì mới là phạm tội có tổ chức. Các yếu tố để xác định phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có tổ chức cũng có những đắc điểm riêng như:

Người thực hành trong vụ lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là người trực tiếp thực hiện hành vi, những thủ đoạn để chiếm đoạt tài sản từ chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản.

Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức để lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Cũng tương tự như các trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức để phạm tội, người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản khi lợi dụng chức vụ, quyền han hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức cũng phải thoả mãn những yếu tố sau:

 Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ. Nếu những người này, lợi dụng chức vụ để lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì mới thuộc trường hợp lợi dụng chức vụ để phạm tội.

Người có quyền hạn là người được giao thực hiện một công vụ và do thực hiện công vụ đó nên họ có một quyền hạn nhất định. Người có quyền hạn thông thường là người có chức vụ, nhưng cũng có thể là người không có chức vụ nhưng được giao hoặc được thạm gia thực hiện một công vụ.

Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức là người phạm tội thông qua cơ quan, tổ chức mà mình là thành viên để lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Thông thường, người phạm tội trường hợp này là thông qua các hợp đồng kinh tế để nhận được tài sản rồi sau đó lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức khác để thực hiện những thủ đoạn nhằm chiếm đoạt tài sản.

Dùng thủ đoạn xảo quyệt để lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Dùng thủ đoạn xảo quyệt khi thực hiện hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là người phạm tội có những mánh khoé, cách thức thâm hiểm làm cho người bị hại và những người khác khó lường trước để đề phòng. Thông thường, những thủ đoạn xảo quyệt người phạm tội dùng trong trường hợp này là sau khi đã nhận được tài sản của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản một cách hợp pháp rồi mới dùng thủ đoạn xảo quyệt để chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên cũng có trường hợp người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt ngay trước khi nhận được tài sản của chủ sở hữu, nhưng thủ đoạn xảo quyết đó không nhằm mục đích chiếm đoạt mà chỉ nhằm ký kết được hợp đồng một cách hợp pháp, lúc dùng thủ đoạn xảo quyệt, người phạm tội chưa có ý định chiếm đoạt.

Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng

Đây là trường hợp người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng. Cũng như các trường hợp phạm tội tương tự, việc xác định giá trị tài sản là căn cứ vào giá thị trường vào thời điểm phạm tội, vì trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của một người khi thực hiện hành vi phạm tội. Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng không tự mình xác định được giá trị tài sản thì phải trưng cầu giám định (định giá).

Mặc dù điều luật chỉ quy định chiếm đoạt tài sản nhưng không vì thế mà cho rằng, người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản trị giá từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng mới thuộc trường hợp phạm tội này, mà chỉ cần xác định người phạm tội có ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản có giá trị như trên là đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm c khoản 2 Điều 140 Bộ luật hình sự, còn người phạm tội đã chiếm đoạt được hay chưa không phải là dấu hiệu bắt buộc. Tuy nhiên, do đặc điểm của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản người phạm tội chỉ chiếm đoạt tài sản khi tài sản đó đang do mình quản lý, nên chỉ có một số trường hợp có giai đoạn phạm tội chưa đạt, do đó khi xác định tài sản bị chiếm đoạt có giá rị bao nhiêu còn phải căn cứ hành vi và thủ đoạn phạm tội cụ thể, không chỉ căn cứ vào giá trị tài sản mà người phạm tội đang quản lý để xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt. Vi dụ: A vay của B với tổng số tiền là 500.000.000 đồng bằng 5 hợp đồng (5 giấy biên nhận), nhưng A chỉ dùng thủ đoạn sửa chữa một giấy biên nhận từ 50.000.000 đồng  thành 30.000.000 đồng để chiếm đoạt 20.000.000 đồng, chứ không sửa chữa cả 5 tờ giấy biện nhận, nên trong trường hợp này, A chỉ chiếm đoạt 20.000.000 đồng chưa không phải chiếm đoạt 50.000.000 đồng hay cả 500.000.000 đồng.

Người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm

Trường hợp phạm tội này lại hoàn toàn giống với tất cả những trường hợp tái phạm nguy hiểm khác, chỉ cần xác định người phạm tội có đủ các dấu hiệu quy định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự. Đây là tình tiết thuộc về nhân thân người phạm tội, không phụ thuộc vào hành vi phạm tội cụ thể của tội phạm này hay tội phạm khác.

Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản gây hậu quả nghiêm trọng

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng quy định ở các điều khoản tương ứng của các tội có tính chất chiếm đoạt, chỉ khác ở chỗ trường hợp phạm tội này hậu quả nghiêm trọng là do hành vi phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản gây ra. Cũng như các trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng khác, khi xác định cần căn cứ vào các thiệt hại về thể chất, về tài sản, phi vật chất do hành vi trộm cắp gây ra. Nói chung, hậu quả nghiêm trọng do hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản gây ra phải tương đương với các tình tiết quy định tại khoản 2 Điều 140 Bộ luật hình sự, vì nó được quy định trong cùng một khung hình phạt với các tình tiết này.

Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản gây hậu quả nghiêm trọng là trường hợp do hành vi phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nên đã gây ra những thiệt hại khác ngoài những thiệt hại đã được quy định là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt. Những thiệt hại này gọi chung là “hậu quả nghiêm trọng”. Căn cứ vào các quy định tại Điều 140 Bộ luật hình sự, qua thực tiến xét xử, có thể coi những thiệt hại sau là hậu quả nghiêm trọng do hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản gây ra:

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 11%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 11% đến 30%;

– Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng, nhưng không phải là giá trị tài sản người phạm tội chiếm đoạt;

– Ngoài những thiệt hại về sức khoẻ hoặc tài sản có thể xác định được như đã nêu trên, còn những thiệt hại phi vật chất cũng cần được xác định để đánh giá hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, như: ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội; gây hoang mang cho nhiều người trên một địa bàn nhất định. Những thiệt hại phi vật chất, đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải căn cứ vào từng vụ án cụ thể, trong một hoàn cảnh cụ thể, xảy ra ở một địa bàn cụ thể, mới có thể xác định được chính xác.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 140 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm, là tội phạm  nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt, cần chú ý một số điểm sau:

– Người phạm tội dưới 16 tuổi không bị truy cứu trách nhiệm hình sự;

– Nếu người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có tình tiết tăng nặng nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới hai năm tù). Việc cho người phạm tội được hưởng án treo phải thận trọng và phải đảm bảo đúng các quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự.

Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì:

– Người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 140 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 140 Bộ luật hình sự;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự sẽ được áp dụng hình phạt thấp hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự sẽ bị áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết tăng nặng;

– Thiệt hại về tài sản, tinh thần càng lớn, hình phạt càng nặng và ngược lại;

– Người phạm tội bồi thường được càng nhiều tài sản bị chiếm đoạt thì mức hình phạt càng được giảm so với người phạm tội chỉ bồi thường hoặc chỉ bồi thường không đáng kể.

  1. Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 139 Bộ luật hình sự

Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm  d khoản 2 Điều 140 Bộ luật hình sự, chỉ khác là tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng. Cũng như các trường hợp tương tự khác, việc xác định giá trị tài sản là căn cứ vào giá thị trường vào thời điểm phạm tội, vì trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của một người khi thực hiện hành vi phạm tội. Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng không tự mình xác định được giá trị tài sản thì phải trưng cầu giám định (định giá).

Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản gây hậu quả rất nghiêm trọng

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng khác, chỉ khác ở chỗ trường hợp phạm tội này hậu quả rất nghiêm trọng là do hành vi phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản gây ra. Cũng như các trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng khác, khi xác định cần căn cứ vào các thiệt hại về thể chất, về tài sản, phi vật chất do hành vi phạm tội gây ra. Nói chung, hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản gây ra phải tương đương với các tình tiết quy định tại khoản 3 Điều 140 Bộ luật hình sự, vì nó được quy định trong cùng một khung hình phạt với các tình tiết này.

Căn cứ vào các quy định tại Điều 140 Bộ luật hình sự, qua thực tiến xét xử, có thể coi những thiệt hại sau là hậu quả rât nghiêm trọng do hành vi phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt  tài sản gây ra:

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 31% đến 60%;

– Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, nhưng không phải là giá trị tài sản người phạm tội chiếm đoạt hoặc có ý định chiếm đoạt;

– Ngoài những thiệt hại về sức khoẻ hoặc tài sản có thể xác định được như đã nêu trên, còn những thiệt hại phi vật chất cũng cần được xác định để đánh giá hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, như: ảnh hưởng rất xấu đến việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng rất xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội; gây hoang mang cho rất nhiều người trên một địa bàn nhất định. Những thiệt hại phi vật chất, đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải căn cứ vào từng vụ án cụ thể, trong một hoàn cảnh cụ thể, xảy ra ở một địa bàn cụ thể, mới có thể xác định được chính xác.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 140 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt, cần chú ý một số điểm sau:

Nếu người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có tình tiết tăng nặng nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới bảy năm tù) nhưng không được dưới hai năm tù. Việc cho người phạm tội được hưởng án treo phải rất thận trọng và phải đảm bảo đúng các quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự.

Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì:

– Người phạm tội thuộc cả hai trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 140 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 140 Bộ luật hình sự;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự sẽ được áp dụng hình phạt thấp hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự sẽ bị áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết tăng nặng;

– Thiệt hại về tài sản, tinh thần càng lớn, hình phạt càng nặng và ngược lại;

– Người phạm tội bồi thường được càng nhiều tài sản bị chiếm đoạt thì mức hình phạt càng được giảm so với người phạm tội chỉ bồi thường hoặc chỉ bồi thường không đáng kể.

  1. Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 140 Bộ luật hình sự

Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm  đ khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 140 Bộ luật hình sự, chỉ khác là tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên. Cũng như các trường hợp tương tự khác, việc xác định giá trị tài sản là căn cứ vào giá thị trường vào thời điểm phạm tội. Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng không tự mình xác định được giá trị tài sản thì phải trưng cầu giám định (định giá).

Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác, chỉ khác ở chỗ trường hợp phạm tội này hậu quả đặc biệt nghiêm trọng là do hành vi phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản gây ra. Cũng như các trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác, khi xác định cần căn cứ vào các thiệt hại về thể chất, về tài sản, phi vật chất do hành vi phạm tội gây ra. Nói chung, hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản gây ra phải tương đương với các tình tiết quy định tại khoản 4 Điều 140 Bộ luật hình sự, vì nó được quy định trong cùng một khung hình phạt với các tình tiết này.

Căn cứ vào các quy định tại Điều 139 Bộ luật hình sự, qua thực tiến xét xử, có thể coi những thiệt hại sau là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản gây ra:

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 61%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% trở lên hoặc làm chết người. Các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, không bao gồm các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ mà người phạm tội đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc tội giết người.

– Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ  500.000.000 đồng trở lên, nhưng không phải là giá trị tài sản người phạm tội chiếm đoạt;

– Ngoài những thiệt hại về sức khoẻ hoặc tài sản có thể xác định được như đã nêu trên, còn những thiệt hại phi vật chất cũng cần được xác định để đánh giá hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, như: ảnh hưởng đặc biệt xấu đến việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng đặc biệt xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội; gây hoang mang cho rất nhiều người ở nhiều địa bàn nhất định. Những thiệt hại phi vật chất, đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải căn cứ vào từng vụ án cụ thể, trong một hoàn cảnh cụ thể, xảy ra ở một địa bàn cụ thể, mới có thể xác định được chính xác.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 140 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm năm hoặc tù chung thân, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt, cần chú ý một số điểm sau:

 Nếu người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có tình tiết tăng nặng nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới mười hai năm tù) nhưng không được dưới bảy năm tù.

Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì:

– Người phạm tội thuộc cả hai trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 140 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 140 Bộ luật hình sự;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự sẽ được áp dụng hình phạt thấp hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự sẽ bị áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết tăng nặng;

– Thiệt hại về tài sản, tinh thần càng lớn, hình phạt càng nặng và ngược lại;

– Người phạm tội bồi thường được càng nhiều tài sản bị chiếm đoạt thì mức hình phạt càng được giảm so với người phạm tội chỉ bồi thường hoặc chỉ bồi thường không đáng kể.

  1. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Theo quy định tại khoản 5 Điều 140 Bộ luật hình sự thì ngoài hình phạt chính, người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

So với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa quy định tại Điều 135 và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân quy định tại Điều 158 Bộ luật hình sự năm 1985 thì hình phạt bổ sung đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999 có những điểm được sửa đổi bổ sung như sau:

Bỏ hình phạt quản chế hoặc cấm cư trú;

Hình phạt tiền có thể áp dụng đối mức với người phạm tội có cao hơn mức quy định tại Bộ luật hình sự năm 1985 và được áp dụng đối với cả hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân. Mức tiền phạt chung cho hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng. Có thể coi đây là khung hình phạt tiền đối với người phạm tội. Vì vậy, nếu Toà án áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì không được phạt trên một trăm triệu đồng, nhưng nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự thì có thể phạt dưới mười triệu đồng nhưng không được dưới một triệu đồng vì theo quy định tại khoản 3 Điều 30 Bộ luật hình sự mức phạt tiền không được dưới một triệu đồng.

Tham khảo thêm:

1900.0191