Bản án kinh tế của Tòa án tối cao xét xử năm 2007 tuyên Công ty A phải bồi thường cho Công ty B là 100 triệu đồng. Năm 2010, Công ty B (bên được thi hành án) mới làm đơn yêu cầu thi hành án theo nội dung bản án. Đề nghị hướng dẫn thời điểm tính lãi suất: Tính lãi suất kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật (vì đơn làm trong thời hiệu yêu cầu thi hành án) hay chỉ tính từ thời điểm có đơn yêu cầu thi hành án.
Gửi bởi: Thien Bach
Trả lời có tính chất tham khảo
Theo quy định tại khoản 1 mục III Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản, thì để bảo đảm quyền lợi cho bên được thi hành án, hạn chế việc bên phải thi hành án cố tình dây dưa, không tự nguyện thi hành án, cùng với việc quyết định khoản tiền mà bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán cho bên được thi hành án, khoản tiền phải nộp để đưa vào ngân sách Nhà nước (tiền tịch thu, tiền truy thu thuế, tiền truy thu do thu lợi bất chính, tiền phạt), toà án phải quyết định rõ trong bản án hoặc quyết định là kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án… Khi tính lãi chỉ tính lãi số tiền còn phải thi hành án, mà không tính lãi của số tiền lãi chưa trả trong quá trình thi hành án.
Đối chiếu với quy định nêu trên, trường hợp Công ty A phải bồi thường cho Công ty B là 100 triệu đồng như bạn nêu, lãi suất chậm thi hành án tính kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (Công ty B).
Các văn bản liên quan:
Thông tư liên tịch 01/TTLT Hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS
Tham khảo thêm: