I. KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN, CÔNG TY QUẢN LÝ QUỸ VÀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. Công ty chứng khoán
a) Khái niệm
Công ty chứng khoán là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh chứng khoán, thực hiện một, một số hoặc toàn bộ các nghiệp vụ: môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán.
b) Đặc điểm, phân loại công ty chứng khoán
Từ khái niệm nêu trên cho thấy công ty chứng khoán là một loại doanh nghiệp nên nó có đầy đủ những đặc điểm của doanh nghiệp nói chung. Bên cạnh đó, do công ty chứng khoán kinh doanh trong lĩnh vực đặc thù nên có những đặc điểm pháp lý riêng biệt giúp phân biệt chúng với các doanh nghiệp kinh doanh khác, bao gồm: (i) lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh; (ii) hình thức tổ chức pháp lý; (iii) về phương diện quản lý nhà nước; (iv) pháp luật điều chỉnh. Cụ thể:
(i) Về lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh: Công ty chứng khoán là chủ thể kinh doanh trên thị trường chứng khoán có hoạt động kinh doanh chính, thường xuyên và mang tính nghề nghiệp là kinh doanh chứng khoán. Pháp luật chứng khoán quy định, công ty chứng khoán được thực hiện một, một số hoặc toàn bộ nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán dưới đây theo giấy phép được cấp: Môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn chứng khoán[2]. Ủy ban chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) chỉ cấp giấy phép hoạt động bảo lãnh phát hàn khi công ty chứng khoán đã được phép hoạt động tự doanh. Công ty được thực hiện nghiệp vụ lưu kí chứng khoán khi được cấp giấy phép thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán hoặc tự doanh chứng khoán. Ngoài ra, công ty chứng khoán được nhận ủy thác quản lý tài sản giao dịch chứng khoán của các nhà đầu tư cá nhân, cung cấp dịch vụ tư vấn tài chính và các dịch vụ tài chính khác theo quy định của Bộ tài chính[3]. Có thể thấy, ở nước ta, công ty chứng khoán được thực hiện nhiều nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán, trừ nghiệp vụ quản lý doanh mục đầu tư và quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, nếu có đủ điều kiện và được UBCKNN cấp phép cho các hoạt động đó. So với các chủ thể kinh doanh khác trên thị trường chứng khoán như: công ty quản lý quỹ, công ty đầu tư chứng khoán… công ty chứng khoán được thực hiện nhiều nghiệp vụ kinh doanh doanh hơn. Tuy nhiên, so với trước đây, nghiệp vụ kinh doanh của công ty chứng khoán đã bị thu hẹp hơn thể hiện ở việc công ty chứng khoán không được thực hiện nghiệp vụ quản lý doanh mục đầu tư mà chuyển sang cho công ty quản lý quỹ. Quy định xuất phát từ tính đặc thù của nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư và giúp hạn chế xung đột lợi ích giữa các nghiệp vụ trong công ty chứng khoán, đồng thời làm cho pháp luật chứng khoán Việt Nam tương đồng với pháp luật củ nhiều nước.
(ii) về hình thức tổ chức pháp lý
Công ty chứng khoán chỉ được tổ chức dược hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam[4].
(iii) Về phương diện quản lý nhà nước
Công ty chứng khoán đặt dưới sự quản lý nhà nước trực tiếp của cơ quan quản lý chuyên trách. Cụ thể, ở Việt Nam , UBCKNN là cơ quan trực tiếp quản lý và giám sát hoạt động của công ty.
(iv) Pháp luật điều chỉnh
Công ty chứng khoán là doanh nghiệp được thành lập, hoạt động trên cơ sở pháp luật chứng khoán và các văn bản pháp luật có liên quan.
Từ những đặc điểm nêu trên, có thể phân loại công ty chứng khoán theo các tiêu chí sau đây:
*Căn cứ vào hình thức tổ chức pháp lý doanh nghiệp, công ty chứng khoán chia làm hai loại: Công ty chứng khoán cổ phần và công ty TNHH kinh doanh chứng khoán trong đó có hai loại là công ty TNHH một thành viên, công ty TNHH hai thành viên trở lên.
*Căn cứ vào hình thức đầu tư và nguồn vốn của chủ sở hữu, có thể chia công ty chứng khoán thành ba loại : Công ty chứng khoán 100% vốn trong nước; công ty chứng khoán 100% vốn nươc nước; công ty chứng khoán hỗn hợp bao gồm cả nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư ngoài nước; chi nhánh công ty nước ngoài ở Việt Nam.
c) Vai trò của công ty chứng khoán trên thị trường chứng khoán
Công ty chứng khoán là định chế tài chính trung gian quan trọng trên thị trường chứng khoán. Lịch sử hình thành và phát triển thị trường chứng khoán đã chứng minh, thị trường chứng khoán không thể thiếu loại chủ thể này, công ty chứng khoán cần cho cả người phát hành, người đầu tư chứng khoán và là nhân tố quyết định sự phát triển, sôi động của thị trường chứng khoán, cụ thể:
Khi một doanh nghiệp muốn huy động vốn bằng cách phát hành chứng khoá, không phải họ tự đi bán số chứng khoán mà họ định phát hành. Họ không làm tốt được việc đó bởi họ không có bộ máy chuyên môn. Cần có những nhà chuyên nghiệp mua bán chứng khoán cho họ. Đó là các công ty chứng khoán, với nghiệp vụ chuyên môn, kinh nghiệp nghề nghiệp, và bộ máy tổ chức thích hợp, thực hiện được vai trò trung gian môi giới mua bán, phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư và thực hiện một số dịch vụ khác cho cả người đầu tư và người phát hành.
Các công ty chứng khoán là các tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói chung và của thị trường chứng khoán nói riêng. Nhờ các công ty chứng khoán mà cổ phiếu trái phiếu lưu thông buôn bán tấp nập trên thị trường chứng khoán, qua đó, một lượng vốn khổng lồ được đưa vào đầu tư từ việc tập hợp những nguồn vốn lẻ tẻ trong công chúng.
– CTCK tạo ra cơ chế huy động vốn bằng cách nối những người có tiền với những người muốn huy động vốn.Các ngân hàng, các công ty chứng khoán, các quỹ đầu tư đều là các trung gian tài chính với vai trò huy động vốn, các tổ chức này có vai trò làm chiếc cầu nối và đồng thời là kênh dẫn cho vốn chảy từ một hay một số bộ phận nào đó của nền kinh tế có dư thừa vốn đến các bộ phận khác của nền kinh tế đang thiếu vốn. Các công ty chứng khoán thường đảm nhiệm vai trò này qua các hoạt động bảo lãnh phát hành và môi giới chứng khoán.
– Các CTCK cung cấp một cơ chế giá cả.Ngành công nghiệp chứng khoán nói chung, công ty chứng khoán nói riêng, thông qua các sở giao dịch chứng khoán và thị trường OTC, có chức năng cung cấp một cơ chế giá cả nhằm giúp các nhà đầu tư có được sự đánh giá đúng thực tế và chính xác về giá trị khoản đầu tư của mình. Các sở giao dịch chứng khoán niêm yết giá cổ phiếu của các công ty từng ngày một trên các báo cáo tài chính. Ngoài ra, chứng khoán của nhiều công ty lớn không được niêm yết ở sở giao dịch cũng có thể được công bố trên các tờ báo tài chính. Các công ty chứng khoán còn có một chức năng quan trọng là can thiệp trên thị trường, góp phần điều tiết giá chứng khoán. Theo quy định, công ty chứng khoán bắt buộc phải dành ra một tỷ lệ nhất định giao dịch của mình để mua chứng khoán vào khi giá chứng khoán trên thị trường đang giảm và bán ra khi giá chứng khoán cao.
– Các CTCK giúp chuyển chứng khoán thành tiền mặt.Các nhà đầu tư luôn muốn có được khả năng chuyển tiền mặt thành chứng khoán có giá và ngược lại trong một môi trường đầu tư ổn định. Các công ty chứng khoán đảm nhận chức năng chuyển đổi này, giúp nhà đầu tư phải chịu ít thiệt hại nhất khi tiến hành đầu tư. Chẳng hạn, trong hầu hết các nghiệp vụ đầu tư ở Sở giao dịch chứng khoán và thị trường OTC ngày nay, một nhà đầu tư có thể hàng ngày chuyển đổi tiền mặt thành chứng khoán và ngược lại mà không phải chịu thiệt hại đáng kể đối với giá trị khoản đầu tư của mình (ít nhất thì cũng không chịu thiệt hại do cơ chế giao dịch chứng khoán gây nên). Nói cách khác, có thể có một số nhân tố bên ngoài ảnh hưởng đến giá trị đầu tư, chẳng hạn như tin đồn về một vấn đề nào đó trong nền kinh tế, nhưng giá trị khoản đầu tư nói chung không giảm đi do cơ chế mua bán.
Khi thực hiện các chức năng của mình, các công ty chứng khoán cũng tạo ra sản phẩm, vì các công ty này hoạt động với tư cách đại lý hay công ty ủy thác trong quá trình mua bán các chứng khoán được niêm yết và không được niêm yết, đồng thời cung cấp dịch vụ tư vấn đầu tư cho các cá nhân đầu tư, các công ty cổ phần và cả chính phủ nữa.
-Các CTCK thực hiện tư vấn đầu tư.Các công ty chứng khoán với đầy đủ các dịch vụ không chỉ thực hiện mệnh lệnh của khách hàng, mà còn tham gia vào nhiều dịch vụ tư vấn khác nhau thông qua việc nghiên cứu thị trường rồi cung cấp các thông tin đó cho các công ty và các cá nhân đầu tư.
– Các CTCK tạo ra các sản phẩm mới.Trong mấy năm gần đây, chủng loại chứng khoán đã phát triển với tốc độ rất nhanh do một số nguyên nhân, trong đó có yếu tố dung lượng thị trường và biến động thị trường ngày càng lớn, nhận thức rõ ràng hơn của khách hàng đối với thị trường tài chính và sự nỗ lực trong tiếp thị của các công ty chứng khoán. Ngoài cổ phiếu (thường và ưu đãi) và trái phiếu đã được biết đến, các công ty chứng khoán hiện nay còn bán trái phiếu chính phủ (trung ương và địa phương), chứng quyền, trái quyền, các hợp đồng tương lai, hợp đồng lựa chọn và các sản phẩm lai tạo đa dạng khác phù hợp với thay đổi trên thị trường và môi trường kinh tế.
2. Công ty quản lý quỹ
a) Khái niệm
Công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán (công ty quản lý quỹ) là doanh nghiệp theo mô hình công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn, được thành lập để hoạt động quản lý quỹ đầu tư chứng khoán và một số hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật chứng khoán và các văn bản pháp luật có liên quan.
b) Đặc điểm, phân loại công ty quản lý quỹ
Từ những quy định của pháp luật hiện hành về công ty quản lý quỹ, công ty có những đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, công ty quản lý quỹ được thành lập và hoạt động theo sự cho phép của UBCKNN. Việc cấp phép của UNCKNN nhằm mục đích thẩm tra về năng lực dự kiến của công ty trước khi nó được thành lập nhằm đảm bảo khi đi vào hoạt động, công ty có thể thực hiện tốt các chức năng của mình và tránh gây tổn thương không đáng có cho các nhà đầu tư chỉ vì không đủ năng lực kinh doanh. Đồng thời qua đó thực hiện chức năng giám sát của cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán.
Thứ hai, hoạt động chính của công ty quản lý quỹ là hoạt động quản lý quỹ đầu tư chứng khoán theo sự ủy thác của các nhà đầu tư vào quỹ hoặc sự ủy thác của các nhà đầu tư riêng lẻ. Hoạt động quản lý quỹ bao gồm việc nắm giữ tài sản của quỹ, trực tiếp tiến hành hoạt động đầu tư chứng khoán từ nguồn vốn của quỹ, quản lý danh mục đầu tư quỹ,… Công ty quản lý quỹ có thể quản lý một hoặc nhiều quỹ đầu tư chứng khoán nhưng phải đảm bảo các quỹ này phải độc lập với nhau kể cả về tài chính cũng như quản lý để đảm bảo lợi ích của các nhà đầu tư cũng như mục tiêu đầu tư của từng quỹ. Ngoài nghiệp vụ quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, công ty quản lý quỹ còn thực hiện nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư theo sự ủy thác của nhà đầu tư ngoài quỹ. Hoạt động quản lý quỹ, quản lý danh mục đầu tư của công ty quản lý quỹ khác với hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán và hoạt động đầu tư của công ty đầu tư chứng khoán ở chỗ, nguồn vốn đầu tư không thuộc sở hữu của chính công ty mà là của các nhà đầu tư ủy thác cho công ty quản lý quỹ.
Qua phân tích những đặc điểm, dựa vào các tiêu chí khác nhau có thể phân loại công ty quản lý quỹ như sau:
*Căn cứ vào mô hình quản lý có thể chia công ty quản lý quỹ thành hai loại là công ty trách nhiệm hữu hạn quản lý quỹ và công ty cổ phần quản lý quỹ.
*Căn cứ vào mối quan hệ với chủ thể góp vốn thì công ty quản lý quỹ chia thành hai loại là công ty quản lý quỹ độc lập và công ty quản lý quỹ phụ thuốc.
c) Vai trò của công ty quản lý quỹ trên thị trường chứng khoán
Xuất phát từ vai trò của quỹ đầu tư chứng khoán là tạo ra hiệu quả và góp phần ổn định thị trường chứng khoán, góp phần tăng cung – cầu về chứng khoán và góp phần phát triển thị trường vốn và tăng cường năng lực quản trị doanh nghiệp. Quản lý hiệu quả các quỹ đầu tư chứng khoán có thể tăng lượng tiền đầu tư. Trong đó, công ty quản lý quỹ là nhận sự ủy thác quản lý quỹ hoặc chính là tổ chức đứng ra thành lập quỹ, cũng như quản lý điều hành hoạt động của quỹ sau khi thành lập. Do đó có thể thấy, công ty quản lý quỹ có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của thị trường chứng khoán.
Công ty quản lý quỹ được thành lập trên cơ sở đáp ứng những điều kiện theo quy định về pháp luật để được cấp phép bới UBCKNN. Công ty hoạt động theo một cơ cấu tổ chức được quy định chặt chẽ đối kể cả đối với việc lãnh đạo và điều hành công ty cũng như các hoạt động phải tuân thủ các quy định của pháp luật. Chính vì vậy, công ty quản lý quỹ thực hiện các hoạt động quản lý đối với quỹ giúp đảm bảo cho hoạt động quản lý quỹ hiệu quả, bảo vệ quyền lợi và tránh những rủi ro cho các nhà đầu tư khi họ không được tổ chức chuyên nghiệp mang tính chất nghiệp vụ như công ty quản lý quỹ.
3. Ngân hàng thương mại
a) Khái niệm
Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận
b) Đặc điểm và phân loại ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một loại tổ chức tín dụng, nên nó mang đặc điểm của của tổ chức tín dụng, cụ thể:
Thứ nhất, ngân hàng thương mại là doanh nghiệp, có đối tượng kinh doanh trực tiếp là tiền tệ. Có thể thấy, về bản chất, ngân hàng thương mại là loại doanh nghiệp đặc thù được thể hiện qua đối tượng kinh doanh của ngân hàng như đã nêu.
Thứ hai, ngân hàng thương mại là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh chính, thường xuyên và mang tính nghề nghiệp. Nội dung kinh doanh chủ yếu của ngân hàng thương mại là kinh doanh, cung ứng thường xuyên hoặc một số các nghiệp vụ: nhận tiền gửi; cấp tín dụng; cung ứng thanh toán qua tài khoản.
Thứ ba, ngân hàng thương mại là loại hình doanh nghiệp chịu sự quản lý nhà nước của Ngân hàng nhà nước và thuộc phạm vi áp dụng của pháp luật ngân hàng.
Ngân hàng thương mại được phân chia thành các loại theo những tiêu chí khác nhau, cụ thể:
*Căn cứ vào phạm vi kinh doanh trong các lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật mà ngân hàng thương mại hoạt động có thể phân chia thành hai loại là ngân hàng chuyên doanh và ngân hàng kinh doanh đa năng, tổng hợp.
Ở Việt Nam, ngân hàng thương mại có các loại hình sau:
– Ngân hàng thương mại nhà nước;
– Ngân hàng thương mại cổ phần;
– Ngân hàng liên doanh;
– Ngân hàng 100% vốn nước ngoài;
– Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam
c) Vai trò của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán
Trong thị trường chứng khoán, vai trò của ngân hàng thương mại được thể hiện ở các khía cạnh sau: về hàng hóa, về tổ chức trung gian, về thông tin, về sự điều tiết cung cầu và về định chế tài chính trên thị trường. Đó là những yếu tố quan trọng nhất tạo nên sự phát triển của thị trường nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng. Thông qua việc phân tích ảnh hưởng và tác động của ngân hàng thương mại đến thị trường chứng khoán sẽ cho ta thấy được hơn hết vai trò của ngân hàng thương mại đối với thị trường chứng khoán, cụ thể như sau:
– Vai trò của ngân hàng trong việc tạo hàng hóa cho thị trường chứng khoán: ngân hàng tạo ra hàng hóa cho thị trường chứng khoán dưới hai góc độ trực tiếp và gián tiếp. Trên góc độ trực tiếp, ngân hàng thương mại có thể tham gia hoạt động với tư cách là người phát hành cả cổ phiếu để tạo nguồn vốn khi mới thành lập hoặc vốn bổ sung thêm hoạt động. Ngoài ra, các ngân hàng không kể thành phần sở hữu đều có thể phát hành trái phiếu để huy động vốn từ nền kinh tế. Việc này tạo ra cho thị trường chứng khoán một khối lượng hàng hóa rất lớn ở thị trường thứ cấp.
Bên cạnh đó, Ngân hàng với tư cách là một tổ chức trung gian, thực hiện các nghiệp vụ trung gian chứng khoán như bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư chúng khoán, ….. đã góp phần không nhỏ giúp các doanh nghiệp khác phát hành chứng khoán, gián tiếp tạo sự đa dạng về hàng hoá cho thị trường chứng khoán. Thứ nhất, phải kể đến đó là Ngân hàng thương mại là nhân tố góp phần thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước thành các công ty cổ phần. Ngân hàng tham gia vào việc thành lập công ty cổ phần hoặc cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước với tỷ lệ cổ phiếu đáng kể để có đủ điều kiện tham gia quản trị kinh doanh, tín nhiệm.
Thứ hai, ngân hàng thương mại cũng giữ một vai trò quan trọng trong việc giúp các công ty phát hành chứng khoán trên thị trường thứ cấp. Khi những nhà sáng lấp một công ty nào đó muốn phát hành chứng khoán để thu hút vốn, họ có thể dựa vào uy tín và kinh nghiệm của ngân hàng để ký hợp đồng về việc phát hành và bán các chứng khoán của mình. Như vậy, ngân hàng thực hiện chức năng môi giới phát hành chứng khoán cho những người muốn bán, người muốn mua. Bên cạnh đó, bằng cách cung cấp dịch vụ tư vấn cổ phần hóa, tư vấn niêm yết, thực hiện bảo lãnh khách hàng chứng khoán trong đợt phát hành và giúp nhà đầu tư đánh giá đúng và chính xác về giá trị các khoản đầu tư của mình.
– Vai trò trung gian chứng khoán của ngân hàng thương mại: Trong thị trường chứng khoán, vói tư cách là một tổ chức trung gian, Ngân hàng thương mại sẽ đưa đường dẫn lối để hai bên gặp nhau thông qua các nghiệp vụ của ngân hàng trên thị trường chứng khoán.
Ngân hàng thương mại với kiến thức rộng, am hiểu tình hình kinh tế chung và rất rành hoạt động của các công ty. Do vậy, ngân hàng thương mại không phải là một người môi giới thông thường, mà giữ vai trò vô cùng chủ động trong việc thương lượng chứng khoán, thay thế thân chủ để cam kết mua bán chứng khoán với giá định sẵn do chính trung gian chứng khoán lựa chọn.
Với các nghiệp vụ chủ yếu của mình trên thị trường chứng khoán như kinh doanh chứng khoán, môi giới chứng khoán và bảo lãnh chứng khoán đã góp phần vào hoạt động có hiệu quả của thị trường chứng khoán.
– Vai trò điều chỉnh cung cầu chứng khoán của ngân hàng thương mại trên thị trường chính khoán: Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính trên thị trường tài chính với hoạt động cơ bản nhất đó là nhận tiền gửi và tiến hành cho vay nhằm đáp ứng như cầu của nền kinh tế. Lãi suất tiền gửi và cho vay của các ngân hàng có tác động không nhỏ đến mục cung cầu chứng khoán trên thị trường vầ giá của những chứng khoán đó.
Một vai trò khác của ngân hàng thương mại đối với cung cầu chứng khoán trên thị trường chứng khoán đó là cung cấp cơ chế giá cho các khoản đầu tư. Ngân hàng thương mại sẽ tạo cơ chế giá chứng khoán trên thị trường thứ cấp thông qua các Sở giao dịch chứng khoán. Ngân hàng thương mại còn tạo cơ chế giá trên thị trường sơ cấp: khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán, công ty chứng khoán thực hiện vai trò tạo cơ chế giá chứng khoán thông qua việc xác định và tư vấn cho tổ chức phát hành mức giá phát hành hợp lý đối với các chứng khoán trong đợt phát hành
II. MỐI QUAN HỆ GIỮA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN, CÔNG TY QUẢN LÝ QUỸ VỚI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN
1. Mối quan hệ giữa công ty chứng khoán và ngân hàng thương mại
Trong hoạt động đầu tư chứng khoán, công ty chứng khoán và ngân hàng thương mại luôn có mối quan hệ gắn bó, hỗ trợ, bổ trợ lẫn nhau và cùng tạo ra những lợi ích. Điều này thể hiện ở các nội dung sau:
Thứ nhất, công ty chứng khoán được thành lập để hoạt động kinh doanh chứng khoán phải đáp ứng điều kiện riêng đối với từng loại hình doanh nghiệp của công ty trong đó có sự tham gia góp vốn của ngân hàng thương mại với tư cách là cổ đông sáng lập hoặc thành viên góp vốn với tỷ lệ vốn góp nhất định. Cụ thể, đối với công ty chứng khoán thành lập theo hình thức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, thì ít nhất phải có 1 cổ đông sáng lập, thành viên góp vốn là ngân hàng thương mại có tỷ lệ vốn góp tối thiểu là 30%. Công ty chứng khoán thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên thì chủ sở hữu là ngân hàng thương mại. Như vậy, tiền đề của việc thực hiện hoạt động đầu tư, ngân hàng thương mại tham gia vào việc thành lập, tổ chức hoạt động của công ty chứng khoán[7].
Thứ hai, Khi thực hiện hoạt động môi giới chứng khoán, công ty chứng khoán làm trung gian đại diện cho khách hàng, tiến hành mua, bán chứng khoán cho khách hàng và được hưởng hoa hồng từ hoạt động đó. Khi quản lý tiền của khách hàng, công ty chứng khoán đảm bảo quản lý tách bạch tiền gửi giao dịch chứng khoán của từng khách hàng và tách bạch tiền của khách hàng với tiền của công ty chứng khoán. Bên cạnh đó, Công ty chứng khoán không được trực tiếp nhận và chi trả tiền mặt để giao dịch chứng khoán của khách hàng mà phải thực hiện qua ngân hàng thương mại đồng thời không được lạm dụng tiền của khách hàng dưới mọi hình thức[8]. Để thực hiện được những yêu cầu trên, công ty chứng khoán phải xây dựng hệ thống quản lý tiền và bổ sung các phương thức để khách hàng lựa chọn, tham gia vào hệ thống quản lý và các phương thức này có sự tham gia, kết hợp chặt chẽ của ngân hàng thương mại, cụ thể bao gồm như sau:
– Khách hàng của công ty chứng khoán mở tài khoản trực tiếp tại ngân hàng thương mại do công ty chứng khoán lựa chọn để quản lý tiền giao dịch chứng khoán. Trong phương thức này, khách hàng, công ty chứng khoán và ngân hàng thương mại có hợp đồng thỏa thuận về cách thức xác nhận, phong tỏa số dư tiền và chuyển tiền thanh toán giao dịch chứng khoán của khách hàng. Sau khi lệnh mua chứng khoán của khách hàng được khớp, công ty chứng khoán có quyền yêu cầu ngân hàng nơi nhà đầu tư mở tài khoản thực hiện chuyển tiền tương ứng với giá trị khớp lệnh vào tài khoản thanh toán giao dịch chứng khoán do công ty chứng khoán đứng tên mở tại ngân hàng thương mại do công ty chứng khoán lựa chọn. Công ty chứng khoán có nghĩa vụ thay mặt cho khách hàng thực hiện thanh toán giao dịch chứng khoán với các bên có liên quan.
– Công ty chứng khoán mở tài khoản chuyên dụng tại ngân hàng thương mại để quản lý tiền gửi giao dịch chứng khoán của khách hàng. Tài khoản chuyên dụng phải mở riêng biệt và tách bạch với các tài khoản khác của công ty chứng khoán. Tài khoản chuyên dụng này chỉ phục vụ cho giao dịch của khách hàng, cụ thể:
+ Khách hàng nộp, chuyển tiền vào tài khoản giao dịch chứng khoán;
+Khách hàng rút, chuyển tiền ra khỏi tài khoản giao dịch chứng khoán;
+Khách hàng thanh toán giao dịch chứng khoán;
+ Khách hàng ký quỹ giao dịch, nộp tiền đấu giá mua chứng khoán;
+ Khách hàng thanh toán thực hiện quyền mua chứng khoán;…
Sự tham gia của ngân hàng thương mại trong hoạt động quản lý tiền của khách hàng trong công ty chứng khoán giúp cho hoạt động đầu tư chứng khoán của khách hàng đảm bảo an toàn, tránh sự lạm dụng tiền vào các hoạt động đầu tư khác của công ty chứng khoán.
Thứ ba, trong hoạt động chào bán chứng khoán, công ty chứng khoán tham gia góp phần làm cho hoạt động chào bán được tiếp cận và phân phối được hết số lượng chứng khoán dự kiến, là một trong những cách thức giúp cho đợt chào bán huy động đầu tư của tổ chức phát hành được thành công. Trong hoạt động bảo lãnh phát hành, công ty chứng khoán đứng ra cam kết với tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, nhận mua một phần hay toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát hành để bán lại hoặc mua số chứng khoán còn lại không được phân phối hết. Khi thực hiện hoạt động này, công ty chứng khoán phải mở một tài khoản ngân hàng riêng biệt tại ngân hàng thương mại để nhận tiền đặt mua chứng khoán của các nhà đầu tư. Ngân hàng thương mại quản lý tài khoản theo quy định và phong tỏa tài khoản đó cho đến khi cuộc chào bán kết thúc.
Thứ tư, trong thị trường chứng khoán, ngân hàng thương mại cũng là một tổ chức trung gian có tính chuyên nghiệp am hiểu tình hình kinh tế và am hiểu hoạt động của các công ty. Với nghiệp vụ chủ yếu trên thị trường chứng khoán như kinh doanh chứng khoán, môi giới chứng khoán, bảo lãnh chứng khoán, ngân hàng thương mại đã góp phần vào hoạt động hiệu quả của các hoạt động đầu tư trong thị trường chứng khoán. Mà cụ thể là thông qua các công ty chứng khoán, thực hiện vai trò cầu nối giữa nhà đầu tư với các doanh nghiệp, góp phần huy động các nguồn vốn mới hiệu quả cho nền kinh tế, đẩy mạnh các nghiệp vụ môi giới và bảo lãnh chứng khoán, nâng cao chất lượng và mở rộng hoạt động tư vấn đầu tư.
Thứ năm, Chính hoạt động của cá Công ty chứng khoán thuộc các ngân hàng thương mại và các nhân viên môi giới của họ là một yếu tố góp phần hoàtn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh chứng khoán. Nếu môi trường pháp lý không đủ chặt chẽ và việc thực hiện không nghiêm thì mâu thuẫn sẽ phát sinh có thể dẫn đến làm đổ vỡ thị trường. Công ty chứng khoán cùng các nhân viên của mình sẽ đưa pháp luật đến với nhà đầu tư, giúp nhà đầu tư luôn có ý thức tìm hiểu và tuân thủ pháp luật trong quá trình tìm kiếm lợi ích; đồng thời các công ty chứng khoán cũng kịp thời phản ánh cho các nhà làm luật kịp thời chỉnh sửa những bất cập trong các văn bản quy phạm pháp luật.
2. Mối quan hệ giữa công ty quản lý quỹ với ngân hàng thương mại
Trong hoạt động đầu tư chứng khoán, công ty quan lý quy và ngân hàng thương mại tồn tại mối quan hệ gắn bó, hợp tác như sau:
Thứ nhất, ngân hàng thương mại tham gia vào thành lập công ty quản lý quỹ đầu tư. Công ty quản lý quỹ tùy theo loại hình doanh nghiệp mà ngân hàng thương mại tham gia với tư cách và tỷ lệ vốn góp khác nhau. Đối với công ty quản lý quỹ thành lập theo mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên hoặc công ty cổ phần, thì một thành viên góp vốn hoặc cổ đông sáng lập là ngân hàng thương mại sở hữu tối thiểu 30% vốn điều lệ của công ty. Với tỷ lệ vốn điều lệ như trên, thì ngân hàng thương mại tham gia vào hoạt động của công ty. Công ty quản lý quỹ thành lập theo mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thì chủ sở hữu là ngân hàng thương mại.
Thứ hai, trong hoạt động đầu tư chứng khoán, mặc dù công ty quản lý quỹ chịu trách nhiệm quản lý quỹ nhưng toàn bộ tiền và tài sản của quỹ lại do ngân hàng (ngân hàng thương mại) – một tổ chức độc lập với công ty quản lý quỹ và bản thân quỹ đứng ra bảo quản. Ngân hàng chịu trách nhiệm giáp sát việc tuân thủ pháp luật, tuân thủ điều lệ công ty của công ty quản lý quỹ. Ngân hàng này do công ty quản lý quỹ chọn theo các điều kiện mà pháp luật quy định và thực hiện việc bảo quản và giám sát hoạt động của công ty quản lý quỹ trên cơ sở hợp đồng được ký kết với công ty quản lý quỹ. Với sự tham gia của ngân hàng, làm cho tách bạch giữa quyền quản lý của công ty và quyền nắm giữ tài sản của quỹ. Việc tách bạch như vậy, không những đảm bảo cho những nhà đầu tư yên tâm trong về khả năng kiểm soát của ngân hàng giám sát từ đó cũng yên tâm thực hiện các hoạt động đầu tư, nhưng thực chất cũng giúp cho công ty quản lý quỹ giảm bớt chi phí quản lý, bởi do tính chất nghiệp vụ thì ngân hàng thương mại sẽ chuyên nghiệp hơn, do đó, chi phí quản lý sẽ thấp hơn.
Thứ ba, ngân hàng thương mại (ngân hàng giám sát) hỗ trợ về mặt kỹ thuật hoặc tài chính trong hoạt động quản lý quỹ đầu tư. Những nghiệp vụ như lưu ký chứng khoán, công ty quản lý quỹ không đủ khả năng để thực hiện mà sẽ phải có những phương tiện cần thiết để bảo quản, ghi chép giao dịch… Những hỗ trợ này cần thiết cho công ty quản lý quỹ khi quản lý nhiều quỹ khác nhau mà yêu cầu của pháp luật lại tách biệt về nội dung về tài sản giữa chúng.
III. ĐỀ XUẤT CÁC Ý KIẾN PHÁP LÝ NHẰM ĐẢM BẢO AN TOÀN TRONG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN, CÔNG TY QUẢN LÝ QUỸ VÀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. Hạn chế, bất cập của hoạt động đầu tư tài chính
Trải qua hơn 16 năm xây dựng và phát triển, thể chế của TTCK Việt Nam đã từng bước được hoàn thiện. Thị trường đã xây dựng các quy tắc để vận hành thông qua việc tạo lập khuôn khổ pháp lý khá đồng bộ, thống nhất, từng bước khắc phục được những mâu thuẫn, xung đột giữa các văn bản pháp luật khác có liên quan; tạo cơ sở cho TTCK Việt Nam phát triển và hội nhập với thị trường tài chính quốc tế, đồng thời nâng cao khả năng quản lý, giám sát thị trường của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN). Trong mỗi giai đoạn phát triển của thị trường, Bộ Tài chính, UBCKNN, các Sở Giao dịch Chứng khoán (SGDCK)… đã đưa ra nhiều giải pháp để thúc đẩy TTCK phát triển hiệu quả. Tuy nhiên, đánh giá toàn diện thì thể chế TTCK Việt Nam vẫn còn một số hạn chế, bất cập, cụ thể:
Thứ nhất, khung pháp lý cho thị trường chứng khoán (TTCK) vẫn chưa bao quát mọi hoạt động của thị trường, một số cơ chế chính sách chưa theo kịp diễn biến của các giao dịch, cung cầu về hàng hóa luôn mất cân đối, ảnh hưởng đến tính thanh khoản của chứng khoán. Mặt khác, TTCK là thị trường bậc cao, hoạt động theo nguyên tắc thị trường, nhưng không ít các hoạt động có liên quan đến giao dịch, phát hành chứng khoán, lãi suất, cơ chế xác định giá, cơ chế đấu thầu… lại chưa tuân theo nguyên tắc thị trường.
Điều này không chỉ ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của TTCK, mà còn tạo ra một số rủi ro tiềm ẩn khó lường, trong khi các quy định về quản lý, giám sát và cưỡng chế khi cần thiết vẫn còn nhiều hạn chế.
Về các bộ phận của TTCK: thị trường cổ phiếu đã có sự tăng trưởng khá nhưng thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) chưa phát triển; TTCK phái sinh (TTCKPS) đang trong quá trình hình thành. Do thị trường TPDN chưa phát triển, nên việc cung ứng nguồn vốn trung và dài hạn cho doanh nghiệp và nền kinh tế vẫn chủ yếu do các ngân hàng thương mại (NHTM) đáp ứng (chiếm 86%). Trong khi đó, trên 80% vốn huy động của các NHTM là không kỳ hạn và ngắn hạn.
Vì thế, các văn bản hiện hành của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) buộc phải cho phép các NHTM sử dụng tối đa 60% vốn ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn (đến hết ngày 31/12/2016, sau đó điều chỉnh giảm theo lộ trình) và tăng tỷ lệ mua, đầu tư trái phiếu Chính phủ so với nguồn vốn ngắn hạn của chi nhánh ngân hàng nước ngoài từ 15% lên 35%, của NHTM nhà nước từ 15% lên 25%. Điều này không chỉ gây rủi ro lớn cho nền kinh tế và cho hệ thống tài chính nói chung mà còn rủi ro cho cả TTCK và các NHTM.
Khi sức ép về vốn trung và dài hạn cho doanh nghiệp dồn vào NHTM thì khó có thể có sự phát triển ổn định trong dài hạn đối với cả các ngân hàng và TTCK. Cũng chính thực trạng sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn với tỷ lệ lớn, luôn tiềm ẩn rủi ro kỳ hạn, nên lãi suất cho vay của các ngân hàng đối với doanh nghiệp khó giảm. Mặt khác, khi TTCK mới đi vào vận hành, việc thành lập hai SGDCK tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh phù hợp với đặc thù của các loại hàng hóa là cần thiết.
Nhưng khi các SGDCK này đã vận hành ổn định, quy mô thị trường từng bước mở rộng mà vẫn tiếp tục duy trì hai SGDCK với cơ chế và hàng hóa giao dịch không có nhiều điểm khác biệt, đã làm tăng chi phí đầu tư của các thành viên thị trường, tăng chi đầu tư phát triển công nghệ phục vụ giao dịch và cũng gây không ít khó khăn cho cơ quan quản lý trong việc quản lý, giám sát thị trường.
Thứ hai, về các tổ chức tham gia thị trường. Các tổ chức và cá nhân tham gia thị trường như: CTCK, quỹ đầu tư, các nhà đầu tư có tổ chức, nhà đầu tư cá nhân, Trung tâm Lưu ký Chứng khoán… Trong thời gian qua, các CTCK, công ty quản lý quỹ (CTQLQ) phát triển nhanh chóng trong khi quản trị công ty (QTCT) không được coi trọng, quản lý nhà nước về hoạt động của các tổ chức này còn bất cập, nên không ít các CTCK hoạt động thua lỗ, năng lực tài chính kém, nguồn nhân lực chất lượng thấp.
Điều này không chỉ ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của chính CTCK mà còn ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư. Bên cạnh việc phát triển quá nóng của các CTCK, CTQLQ thì TTCK vẫn còn thiếu các nhà tạo lập thị trường, các tổ chức xếp hạng tín nhiệm có uy tín để TTCK Việt Nam phát triển ổn định. Do đó, TTCK Việt Nam vẫn bị đánh giá thấp so với tiềm năng phát triển. Hệ thống các nhà đầu tư tham gia thị trường ngày càng tăng, đến nay đã có 1.792.336 tài khoản của nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, nhưng trong đó có đến 1.781.870 tài khoản là của nhà đầu tư cá nhân[10].
Vì thế, sự thiếu chuyên nghiệp ở hầu hết các giao dịch chứng khoán là phổ biến. Điều này không chỉ phản ánh việc thiếu các Quỹ đầu tư để tập hợp các nguồn vốn nhỏ lẻ của nhà đầu tư cá nhân, mà còn ảnh hưởng đến chất lượng quản lý, giám sát các giao dịch của các cơ quan quản lý trên TTCK.
Bên cạnh đó, giữa NHTM và CTCK hay CTQLQ còn xuất hiện mối quan hệ giằng néo nhau trong việc quản lý tài sản của các nhà đầu tư và trong chính hoạt động của các chủ thể này. Điều này gây mất an toàn đối với hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư trên thị trường, gây lên tâm lý e ngại đối với các nhà đầu tư khi tham gia vào thị trường tạo nên một thị trường chứng khoán không tuân theo quy luật như ở nước ta.
Thứ ba, chưa có cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong việc định hướng, quản lý, giám sát và hỗ trợ sự phát triển của TTCK. Những bất ổn của thị trường trong thời gian qua, một mặt phát sinh từ chính những yếu tố nội tại của thị trường như thiếu sự liên kết chặt chẽ giữa các bộ phận của thị trường (thị trường sơ cấp, thị trường UPCoM, thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu), giữa TTCK với thị trường ngoại hối, thị trường tín dụng ngân hàng, mặt khác còn thể hiện sự thiếu quyết liệt của một số Bộ/ngành trong việc xử lý những vấn đề liên quan đến đến TTCK.
Thị trường tài chính bị phân khúc, thiếu sự minh bạch trong quản trị điều hành và trách nhiệm giải trình của các cơ quan quản lý, giám sát ở tầm vĩ mô, cũng như các thông tin thị trường chưa được truyền thông một cách chuẩn xác, kịp thời, đầy đủ đến các nhà đầu tư, trong khi yếu tố tâm lý luôn bị chi phối nặng nề bởi các tin đồn…
2. Đề xuất ý kiến pháp lý nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động đầu tư tài chính của công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, ngân hàng thương mại
Từ những hạn chế bất cập của hoạt động đầu tư tài chính nói chung nêu trên, để đảm bảo an toàn trong hoạt động đầu tư của công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ và ngân hàng thương mại, em xin đưa ra những đề xuất pháp lý như sau:
Một là, tiếp tục hoàn thiện hơn nữa các nguyên tắc, khuôn khổ pháp lý về thành lập, tổ chức hoạt động của công ty chứng khoán (CTCK), công ty quản lý quỹ (CTQLQ), Ngân hàng thương mại (NHTM),… để thúc đẩy TTCK phát triển một cách sâu, rộng theo hướng minh bạch, đồng bộ, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các nhà đầu tư và phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Cụ thể, cần có những quy
Hai là, các thành viên tham gia thị trường cần có giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động. Đối với các CTCK, CTQLQ… tiếp tục tái cơ cấu theo hướng nâng cao yêu cầu về năng lực tài chính, yêu cầu về cơ sở vật chất, về QTCT và yêu cầu về nguồn nhân lực, cần giảm bớt số lượng CTCK thông qua việc sáp nhập, mua lại, giải thể, hướng một số CTCK lớn là những nhà tạo lập thị trường hiệu quả.
Hiện nay, tuy số lượng CTCK đã giảm, nhưng so với quy mô TTCK một số quốc gia trong khu vực, thì số lượng CTCK ở Việt Nam vẫn quá lớn (79 CTCK[12]), trong khi giá trị vốn hóa còn rất nhỏ.
Ba là, xây dựng cơ chế phối hợp trong việc điều hành các chính sách có liên quan đến TTCK. Một số chính sách tác động mạnh đến TTCK là chính sách tài chính và chính sách tiền tệ (CSTT). Trong thời gian qua, việc điều hành CSTT của NHNN theo hướng nới lỏng hoặc thắt chặt đều tác động rất mạnh đến tính thanh khoản của TTCK. TTCK cũng rất nhạy cảm theo sự mở rộng hay thu hẹp tín dụng của NHTM.
Bốn là, tạo hàng hóa có chất lượng tốt cho thị trường. Việc thực hiện cổ phần hóa (CPH) doanh nghiệp nhà nước (DNNN) cần gắn với niêm yết để tạo hàng hóa có chất lượng cho TTCK.
Đồng thời, cần tạo điều kiện cho các nhà đầu tư chiến lược (trong và ngoài nước) mua cổ phiếu, TPDN do các doanh nghiệp Việt Nam phát hành theo phương thức thỏa thuận, hoặc đấu giá giữa các nhà đầu tư chiến lược, để một số doanh nghiệp cải thiện nhanh hơn về năng lực tài chính, chất lượng quản trị, năng lực cạnh tranh.
Thực tế tại một số NHTM cổ phần (NHTMCP) có yếu tố nước ngoài cho thấy, khi có sự tham gia của nhà ĐTNN với tỷ lệ 20% – 30%, các NHTM Việt Nam đã nhanh chóng khắc phục được một số yếu kém về năng lực tài chính, trình độ công nghệ, kỹ năng quản lý.
Vì vậy, để cải thiện năng lực tài chính của các CTCK, các doanh nghiệp sau CPH cũng như các NHTMCP, đồng thời tăng tính hấp dẫn về cổ phiếu của các loại hình doanh nghiệp, trong đó có các DNNN đã CPH, NHTM nhà nước đã CPH nhưng Nhà nước đang giữ cổ phần chi phối lớn, rất cần giảm tỷ lệ sở hữu vốn của Nhà nước xuống mức hợp lý hơn (tối đa 65% đối với một số NHTMCP lớn; 51% đối với một số doanh nghiệp mà Nhà nước cần nắm giữ quyền chi phối; dưới 30%, thậm chí không cần nắm giữ cổ phần đối với các doanh nghiệp nhà nước không cần nắm giữ quyền chi phối).
Một khi Nhà nước vẫn nắm cổ phần chi phối lớn tại các doanh nghiệp cổ phần, NHTMCP thì vẫn khó có sự bứt phá mạnh, tính minh bạch trong quản trị nội bộ, tránh nhiệm giải trình với cổ đông vẫn hạn chế.
Chỉ khi giảm sự can thiệp trực tiếp của các Bộ/ngành vào hoạt động doanh nghiệp, ngân hàng, sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động theo quy luật thị trường và phải chịu tránh nhiệm về hoạt động của mình trước các cổ đông, trong đó có cổ đông nhà nước. Tuy nhiên, khi giảm tỷ lệ vốn của Nhà nước, tăng tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài, người ta thường lo ngại đến vấn đề thâu tóm.
Để tránh hiện tượng này, ngay từ bây giờ, NHNN, Bộ Tài chính có thể đưa ra một số quy định đối với các nhà ĐTNN và công bố công khai để các nhà đầu tư biết. Ví dụ, quy định nhà đầu tư phải bán lại (toàn bộ hay một phần) cổ phần sau một thời gian thỏa thuận, với những lợi ích rõ ràng cho các bên. Điều này đã có một số nước trong khu vực thực hiện.
Năm là, tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của các tổ chức tham gia thị trường, xử lý nghiêm các vi phạm đối với các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp sử dụng phương tiện truyền thông (báo chí, trang tin…) đưa thông tin sai lệch, thông tin thiếu đầy đủ, làm méo mó thông tin, hoặc đưa thông tin bất lợi cho thị trường mà không rõ nguồn gốc.
Về phía cơ quan quản lý nhà nước, cần rõ ràng, minh bạch về việc điều hành các chính sách kinh tế – tài chính cũng như các thông tin vĩ mô để mọi nhà đầu tư biết, hiểu đúng và chấp hành nghiêm quy định của pháp luật.
Cải tiến và nâng cao chất lượng công tác truyền thông để nhà đầu tư tiếp cận được thông tin dễ dàng, kịp thời về chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với thị trường tài chính nói chung và TTCK nói riêng.
Tham khảo thêm:
- Phân tích nguyên tắc tham vấn người khuyết tật và việc cụ thể hóa trong pháp luật người khuyết tật ở Việt Nam
- Xác định chế độ hưởng của người khuyết tật dưới 6 tuổi
- Phân tích các cơ sở khi quy định các điều kiện chi ngân sách nhà nước theo Luật ngân sách nhà nước 2015 , thực trạng áp dụng các điều kiện chi ngân sách nhà nước từ năm 2015 và ý kiến pháp lý của nhóm về tính khả thi theo luật ngân sách nhà nước 2015
- Phân tích và bình luận các quy định về các trường hợp miễn trừ trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng trong thương mại
- Phân tích Điều 25 của CISG – Bình luận về thực tiễn giải quyết các tranh chấp liên quan tới điều khoản này
- Bình luận những quy định của pháp luật Việt Nam (Bộ luật Dân sự 2005 và Bộ luật dân sự 2015) trong việc giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài
- Phân tích, đánh giá những điểm mới của BLTTDS 2015 về Thẩm quyền của Tòa án
- Tìm hiểu việc thực thi chính sách tiền tệ quốc gia của Việt Nam trong giai đoạn cuối năm 2015 trở lại đây và đề xuất ý kiến pháp lý
- Các quy định trong bộ Luật Dân sự năm 2005 về bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân
- Chuyển nhượng dự án đầu tư có sử dụng đất của tổ chức kinh tế Việt Nam cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án đầu tư tại Việt Nam