1.Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo sự việc
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định tại Điều 170 như sau:
“1. Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng, trừ những tội phạm sau đây :
a) Các tội xâm phạm an ninh quốc gia;
b) Các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh;
c) Các tội quy định tại các điều 93, 95, 96, 172, 216, 217, 218, 219, 221, 222, 223, 224, 225, 226, 263, 293, 294, 295, 296, 322 và 323 của Bộ luật hình sự.
2.Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp dưới mà mình lấy lên để xét xử.”
Thẩm quyền xét xử theo sự việc là sự phân định thẩm quyền xét xử giữa tòa án các cấp với nhau căn cứ vào tính chất của tội phạm. Theo đó, việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự sẽ được phân chia thẩm quyền cho hai cấp tòa án: Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực và Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu, cụ thể:
a) Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực:
Theo như quy định tại khoản 1 Điều 170 ở trên, Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng trừ các tội được quy định tại điểm a, b, c khoản 1 Điều 170 nêu trên. Đó là các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh, và các tội quy định tại các điều 93, 95, 96, 172, 216, 217, 218, 219, 221, 222, 223, 224, 225, 226, 263, 293, 294, 295, 296, 322 và 323 của Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009.
So sánh với thẩm quyền xét xử theo sự việc của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, thì Bộ luật mới quy định về thẩm quyền của hai Tòa án này tại khoản 1 Điều 268 như sau: “1. Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng, trừ những tội phạm:
a) Các tội xâm phạm an ninh quốc gia;
b) Các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh;
c) Các tội quy định tại các điều 123, 125, 126, 227, 277, 278, 279, 280, 282, 283, 284, 286, 287, 288, 337, 368, 369, 370, 371, 399 và 400 của Bộ luật hình sự;
d) Các tội phạm được thực hiện ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Về cơ bản với Bộ luật mới, thẩm quyền xét xử theo sự việc của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực không thay đội về loại tội, vẫn là các tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng. Tuy nhiên, số lượng tội phạm thuộc các loại tội đó bị loại trừ cho cấp xét xử khác thì lại nhiều hơn. Bộ luật mới có quy định thêm về tội phạm không thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực mặc dù có thuộc 3 loại tội trong thẩm quyền đó là các tội được thực hiện ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Việc quy định này có ý nghĩa nhằm đảm bảo cho việc xét xử những vụ án hình sự thuộc các tội đó được giải quyết chính xác, đảm bảo đủ điều kiện thu thập các chứng cứ, tài liệu liên quan, mà chuyên môn nghiệp vụ của cấp trên đáp ứng được.
b) Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 170 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp dưới mà mình lấy lên để xét xử. Trước hết, xét xử những vụ án không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyên và Tòa án quân sự khu vực là những vụ án hình sự thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có mức cao nhất của khung hình phạt là trên mười lăm nam, chung thân hoặc tử hình và các tội quy định tại điểm a, b, c tại khoản 1 Điều 170 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, đó là các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội quy định tại các điều 93, 95, 96, 172, 216, 217, 218, 219, 221, 222, 223, 224, 225, 226, 263, 293, 294, 295, 296, 322 và 323 của Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009.
Ngoài ra, Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu còn có thẩm quyền xét xử sơ thẩm với những vụ án hình sự thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp dưới khi lấy lên để xét xử. Bộ luật tố tụng hình sự 2003 không quy định cụ thể những vụ án nào thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực nhưng Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu lấy lên để xét xử. Do đó, Chánh án Tòa án, Viện trưởng Viện kiểm sát và Thủ trưởng cơ quan điều ra cấp tỉnh cần căn cứ vào khả năng thực tế của các Thẩm phán, Kiểm sát viên và Điều tra viên ở cấp huyện mà xác định những loại vụ án nào cần lấy lên để điều tra, truy tố và xét xử ở cấp tỉnh. Tuy nhiên, về cơ bản thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân sự được quy định hoàn toàn giống với Bộ luật tố tụng hình sự 1988, do đó có thể áp dụng quy định tại Thông tư số liên tịch 02/TTLN ngày 12/01/1989 của Tòa án nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Bộ tư pháp – Bộ nội vụ hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 1988, nêu rõ: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án nhân dân cấp tỉnh cần lấy lên điều tra, tuy tố và xét xử những vụ án sau: Vụ án phức tạp (có nhiều tình tiết khó đánh giá thống nhất về tính chất vụ án hoặc liên quan đến nhiều cấp nhiều ngành), khó chứng minh, khó giải quyết; Vụ án mà bị cáo là Thẩm phán, Kiểm sát viên, sĩ quan Công an, cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở cấp huyện, người có chức sắc trong tôn giáo hoặc có uy tín cao trong dân tộc ít người.
Bên cạnh đó, Điều 173 quy định về việc xét xử bị cáo phạm nhiều tội thuộc thẩm quyền của các Tòa án khác cấp như sau: “Khi bị cáo phạm nhiều tội, trong đó có tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp trên, thì Tòa án cấp trên xét xử toàn bộ vụ án.”. Căn cứ vào quy định đó, thì những vụ án có nhiều tội phạm, mà trong đó có cả tội phạm thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp dưới và tội phạm thẩm quyền của Tòa án cấp trên thì Tòa án cấp trên xét xử toàn bộ vụ án. Trường hợp này cũng được coi là trường hợp thuộc thẩm quyết của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu.
Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được quy định tại khoản 2 Điều 268 như sau: “2. Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu xét xử sơ thẩm những vụ án:
a) Vụ án hình sự về các tội phạm không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực;
b) Vụ án hình sự có bị cáo, bị hại, đương sự ở nước ngoài hoặc tài sản có liên quan đến vụ án ở nước ngoài;
c) Vụ án hình sự thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực nhưng có nhiều tình tiết phức tạp khó đánh giá, thống nhất về tính chất vụ án hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành; vụ án mà bị cáo là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, người có chức sắc trong tôn giáo hoặc có uy tín cao trong dân tộc ít người.”
Nhìn vào quy định trên, cho thấy sự khác biệt về thẩm quyền xét xử sở thẩ, của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu trong Bộ luật mới. Trong đó, luật mới giữ nguyên thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự về các tội không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án cấp khu vực như Bộ luật hiện hành, đó là các tội đặc biết nghiêm trọng có mức cao nhất của khung hình phạt là trên mười lăm năm, chung thân hoặc tử hình, và các tội khác quy định tại điểm a, b, c, d khoản 1 Điều 268 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 là các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội được quy định tại các điều 123, 125, 126, 227, 277, 278, 279, 280, 282, 283, 284, 286, 287, 288, 337, 368, 369, 370, 371, 399 và 400 của Bộ luật hình sự năm 2015 và các tội phạm được thực hiện ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam . Bên cạnh đó, Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự thuộc các trường hợp là: Vụ án hình sự có bị cáo, bị hại, đương sự ở nước ngoài hoặc tài sản có liên quan đến vụ án ở nước ngoài; Vụ án hình sự thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực nhưng có nhiều tình tiết phức tạp khó đánh giá, thống nhất về tính chất vụ án hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành; vụ án mà bị cáo là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, người có chức sắc trong tôn giáo hoặc có uy tín cao trong dân tộc ít người. Về việc xét xử bị cáo có nhiều tội thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án khác cấp được quy định tại Điều 271 BLTTHS 2015 như sau: “Khi bị cáo phạm nhiều tội, trong đó có tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp trên thì Tòa án cấp trên xét xử toàn bộ vụ án.”
So với Bộ luật hiện hành, thì thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu vẫn giống với Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự đặc biệt nghiêm trọng có mức cao nhất của khung hình phạt là trên mười lăm năm, chung thân, tử hình; những vụ án có tình tiết phức tạp; những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp dưới được lấy lên xét xử và cả việc xét xử những vụ án mà bị cáo phạm nhiều tội thuộc thẩm quyền xét xử của các Tòa án khác cấp; nhưng Bộ luật mớ quy định rộng hơn và cụ thể hơn so với Bộ luật hiện hành. Với quy định về thẩm quyền xét xử các tội phạm được thực hiện ngoài lãnh thổ Việt Nam và vụ án hình sự có bị cáo, bị hại, đương sự ở nước ngoài hoặc tài sản có liên quan đến vụ án ở nước ngoài, đây là sự quy định rộng hơn về thẩm quyền cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu. Điều này là phù hợp bởi những vụ án mà các tội phạm được thực hiện ngoài lãnh thổ Việt Nam và vụ án hình sự có bị cáo, bị hại, đương sự ở nước ngoài hoặc tài sản có liên quan đến vụ án ở nước ngoài, dù mức độ nguy hiểm của hành vi thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp dưới, nhưng nó có tính chấp phức tạp hơn vì có thêm yếu tố nước ngoài, sẽ có một số thủ tục mà nếu để cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự khu vực xét xử hay kéo theo nó là việc điều tra, truy tố có thể được thực hiện bởi Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát cùng cấp,sẽ đảm bảo cho việc điều tra, giải quyết xét xử vụ án hình sự này được chính xác, khách quan công bằng.
Với quy định tại điểm c khoản 2 Điều 268 Bộ luật mới là sự cụ thể hóa việc áp dụng thực tiễn các trường hợp thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu trước đây. Cụ thể là việc quy định rõ những vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực mà được Tòa án nhân dân cấp tình và Tòa án quân sự cấp quân khu lấy lên để xét xử. Đây là điểm mới đáng nói tới của Bộ luật năm 2015. Các nhà làm luật đã quy định cụ thể hơn về thẩm quyền, ghi nhận chính thức những vụ án hình sự thực tế đang được xét xử vào trong quy định của pháp luật. Việc ghi nhận này có ý nghĩa quan trọng đối với việc tiến hành tố tụng, không còn như trong việc áp dụng Bộ luật hiện hành, mặc dù Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu vẫn xét xử những vụ án đó, nhưng không có hướng dẫn cụ thể, mà chỉ nói là được lấy những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp dưới để xét xử. Điều này dẫn tới nhiều vụ án thuộc thẩm quyền cấp dưới nhưng Tòa cấp trên vẫn lấy lên xét xử dù đó là những vụ án mà Tòa cấp dưới xét xử vẫn đảm bảo được sự chính xác, công bằng.
2.Thẩm quyền xét xử theo đối tượng
a)Tòa án quân sự
Bộ luật tố tụng hình sự 2003 không quy định cụ thể về thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự theo đối tượng đối với Tòa án quân sựTheo quy định tại Điều 49 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014:
“Các Tòa án quân sự được tổ chức trong Quân đội nhân dân Việt Nam để xét xử những vụ án mà bị cáo là quân nhân tại ngũ và những vụ án khác theo quy định của luật.”
Theo như quy định trên, có thể hiểu theo Bộ luật hiện hành, thì thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự sẽ trong trường hợp bị cáo thuộc hai nhóm đối tượng: một là, bị cáo là quân nhân; hai là, thuộc một trong các trường hợp liên quan bí mật quân sự, phạm tội gây thiệt hai cho quân nhân hoặc trường hợp vụ án vừa có người phạm tội thuộc thẩm quyền của Tòa án án nhân dân, vừa thuộc thẩm quyền của tòa án quân sự thì do Tòa án quân sự xét xử một phần hoặc toàn bộ tùy vào việc có thể tách hoặc không thể tách vụ án.
Về giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giữa Tòa án quân sự và Tòa án nhân dân, Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định như sau: “3. Việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa Toà án nhân dân và Tòa án quân sự do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định.” Như vậy, Bộ luật hiện hành chỉ quy định việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án quân sự và Tòa án nhân dân do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định, chứ không quy định cụ thể việc giải quyết đó là như thế nào.
Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về thẩm quyền xét xử vụ án hình sự của Tòa án quân sự tại Điều 272 như sau:
“1. Tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử:
a) Vụ án hình sự mà bị cáo là quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân, viên chức quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu; dân quân, tự vệ trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc phối thuộc với Quân đội nhân dân trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu; công dân được điều động, trưng tập hoặc hợp đồng vào phục vụ trong Quân đội nhân dân;
b) Vụ án hình sự mà bị cáo không thuộc đối tượng quy định tại điểm a khoản 1 Điều này liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân, viên chức quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu hoặc gây thiệt hại đến tài sản, danh dự, uy tín của Quân đội nhân dân hoặc phạm tội trong doanh trại quân đội hoặc khu vực quân sự do Quân đội nhân dân quản lý, bảo vệ.
2.Tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử tất cả tội phạm xảy ra trong địa bàn thiết quân luật.”
Theo quy định ở trên, Tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự mà bị cáo là quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân, viên chức quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu; dân quân, tự vệ trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc phối thuộc với Quân đội nhân dân trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu; công dân được điều động, trưng tập hoặc hợp đồng vào phục vụ trong Quân đội nhân dân; bị cáo không thuộc các đối tượng trên nhưng vụ án có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân, viên chức quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu hoặc gây thiệt hại đến tài sản, danh dự, uy tín của Quân đội nhân dân hoặc phạm tội trong doanh trại quân đội hoặc khu vực quân sự do Quân đội nhân dân quản lý, bảo vệ. Và Tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử tất cả tội phạm xảy ra trong địa bàn thiết quân luật.
Về việc xét xử bị cáo phạm nhiều tội thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự được quy định tại Điều 273 BLTTHS 2015:
“Khi vụ án vừa có bị cáo hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự, vừa có bị cáo hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân thì thẩm quyền xét xử được thực hiện:
1.Trường hợp có thể tách vụ án thì Tòa án quân sự xét xử những bị cáo và tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự; Tòa án nhân dân xét xử những bị cáo và tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân;
2.Trường hợp không thể tách vụ án thì Tòa án quân sự xét xử toàn bộ vụ án.”
Như vậy, khi bị cáo phạm nhiều tội thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự thì tùy vào trường hợp để quyết định thẩm quyền xét xử. Trong trường hợp có thể tách vụ án thì Tòa án quân sự xét xử những bị cáo và những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của mình như ở trên. Trong trường hợp không thể tách vụ án thì Tòa án quân sự xét xử toàn bộ vụ án đó.
Qua phân tích ở trên, có thể thấy Bộ luật tố tụng hình sự mới đã có những bổ sung đầy đủ hơn so với Bộ luật hiện hành. Trong khi Bộ luật tố tụng hình sự không quy định rõ thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự, thì Bộ luật mới đã ghi nhân thêm thẩm quyền của Tòa án quân sự. Việc bổ sung này càng làm cho những quy định của bộ luật tố tụng được đầy đủ, hoàn chỉnh hơn, dễ dàng cho việc áp dụng. Bên cạnh đó, hai bộ luật cũng có điểm tương đồng trong quy định về việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự và Tòa án nhân dân đều do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định. Mặc dù về nội dung thẩm quyền của Tòa án quân sự không có sự thay đổi vì hiện nay đã áp dụng Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014, nhưng việc bổ sung thêm những quy định về thẩm quyền của Tòa án quân sự vào bộ luật mới là cần thiết. Bộ luật tố tụng hình sự bổ sung quy định để cụ thể hóa việc thi hành quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 tại Điều 272 và phân định rõ thẩm quyền của Tòa án quân sự với Tòa án nhân dân. Đây là sự khác biệt cơ bản nhất giữa 2 bộ luật.
b)Tòa án nhân dân
Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành và Bộ luật mới thì Tòa án nhân dân có thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự trong trường hợp còn lại ( trừ thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự thuộc thẩm quyền của Tòa án quân sự). Về cơ bản thẩm quyền của Tòa án nhân dân của cả hai bộ luật là giống nhau, đều xét xử các vụ án hình sự trong các trường hợp phạm tội còn lại mà không thuộc thẩm quyền của Tòa án quân sự.
3.Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ
Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ được quy định tại Điều 171, 172 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Trước hết, Điều 171 quy định như sau:
“1. Tòa án có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự là Tòa án nơi tội phạm được thực hiện. Trong trường hợp tội phạm được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau hoặc không xác định được nơi thực hiện tội phạm thì Tòa án có thẩm quyền xét xử là Tòa án nơi kết thúc việc điều tra.
2.Bị cáo phạm tội ở nước ngoài nếu xét xử ở Việt Nam thì do Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi cư trú cuối cùng của bị cáo ở trong nước xét xử. Nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng ở trong nước của bị cáo thì tùy trường hợp, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ra quyết định giao cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội hoặc Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử.
Bị cáo phạm tội ở nước ngoài, nếu thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự thì do Tòa án quân sự cấp quân khu trở lên xét xử theo quyết định của Chánh án Tòa án quân sự trung ương.”
Theo như quy định trên, thẩm quyền của Tòa án để xét xử vụ án hình sự được xác định theo nguyên tắc nơi tội phạm được thực hiện. Có nghĩa là, tội phạm thực hiện hành vi ở nơi nào, thì Tòa án nới đó có thẩm quyền xét xử vụ án đó. Trong trường hợp tội phạm thực hiện ở nhiều nơi khác nhau hoặc trong vụ án không xác định được nơi thực hiện tội phạm, thì theo quy định ở trên thẩm quyền xét xử sẽ được xác định là Tòa án ở nơi kết thúc việc điều tra. Với trường hợp phạm tội ở nước ngoài, nếu xét xử ở Việt Nam thì do Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi cư trú cuối cùng của bị cáo ở trong nước xét xử. Nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng của bị cáo ở trong nước thì tùy từng trường hợp sẽ do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ra quyết định giao cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội hoặc Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh chịu trách nhiệm xét xử. Bị cáo phạm tội ở nước ngoài nhưng bị cáo thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự thì việc xét xử sẽ do Tòa án quân sự cấp quân khu trở lên xét xử theo quyết định của Chánh án Tòa án quân sự trung ương.
Điều 172 BLTTHS hiện hành quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án có tội phạm xảy ra trên tàu bay, tàu biển của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang hoạt động ngoài không phận hoặc lãnh hại Việt Nam như sau:
“Những tội phạm xảy ra trên tàu bay hoặc tàu biển của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang hoạt động ngoài không phận hoặc lãnh hải Việt Nam thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án Việt Nam, nơi có sân bay hoặc bến cảng trở về đầu tiên hoặc nơi tàu bay, tàu biển đó được đăng ký.”
Lãnh hải là vùng biển có chiều rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở ra phía biển, còn không phận, Không phận là bầu trời do một quốc gia kiểm soát bao phủ lãnh thổ và lãnh hải của quốc gia đó. Như vậy, khi tàu biển tàu bay hoạt động ra ngoài vị trí của lãnh hải, không phận của nước ta, mà hành vi phạm tội được thực trên đó, thì thẩm quyền xét xử sẽ do Tòa án Việt nam xét xử. Tòa án có thẩm quyền xét xử là Tòa án nơi có sân bay, bến cảng mà tàu bay, tàu biển trở về đầu tiên trên lãnh thổ Việt Nam, hoặc có thể là nơi đã đăng kí tàu bay, tàu biển đó.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ tại Điều 269, 270. Trước hết, Điều 269 quy định:
“1. Tòa án có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự là Tòa án nơi tội phạm được thực hiện. Trường hợp tội phạm được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau hoặc không xác định được nơi thực hiện tội phạm thì Tòa án có thẩm quyền xét xử là Tòa án nơi kết thúc việc điều tra.
2.Bị cáo phạm tội ở nước ngoài nếu xét xử ở Việt Nam thì Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi cư trú cuối cùng của bị cáo ở trong nước xét xử. Nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng ở trong nước của bị cáo thì tùy trường hợp, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ra quyết định giao cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội hoặc Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh hoặc Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử.
Bị cáo phạm tội ở nước ngoài nếu thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự thì Tòa án quân sự cấp quân khu xét xử theo quyết định của Chánh án Tòa án quân sự trung ương.”
Nhìn vào quy định của Bộ luật mới, về cơ bản nguyên tắc để xác định thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ vẫn là Tòa án nơi tội phạm được thực hiện. Trong trường hợp tội phạm thực hiện ở nhiều nơi khác nhau hoặc không xác định được nơi thực hiện tội phạm thì Bộ luật mới vẫn giữ nguyên quan điểm của điểm của bộ luật hiện hành, đó là đối với trường hợp này, thẩm quyền xét xử sẽ do Tòa án nơi kết thúc việc điều tra đảm nhiệm việc xét xử. Ngoài ra, việc xét xử tội phạm được thực hiện ở nước ngoài nhưng xét xử ở Việt Nam, Bộ luật mới cũng giữ nguyên quy định như Bộ luật hiện hành là thẩm quyền xét xử sẽ do Tòa án nhân dân nơi cư trú cuối cùng của bị cáo ở trong nước xét xử và cả trong trường hợp bị cáo thuộc đối tượng xét xử của Tòa án quân sự thực hiện tội phạm ở nước ngoài, thì thẩm quyền xét xử sẽ do Tòa án quân sự cấp quân khu xét xử theo quyết định của Chánh án Tòa án quân sự trung ương. Tuy nhiên, đối với trường hợp bị cáo phạm tội ở nước ngoài được xét xử ở Việt Nam, nhưng không xác định được nơi cư trú cuối cùng ở trong nước, thì đối với Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã có sự thay đổi. Đó là thẩm quyền xét xử vẫn do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định nhưng giao cho một trong ba tòa, là Tòa án nhân dân thành phó Hà Nội, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng, hoặc Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử, khác với việc chỉ giao cho hai tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh trong bộ luật hiện hành. Việc quy định thêm thẩm quyền xét xử cho Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng là một bổ sung mang tính cần thiết, phù hợp, đảm bảo cho việc xét xử thuận tiện, nhanh chóng đối với từng bị cáo, vụ án hình sự.
Thẩm quyền xét xử tội phạm xảy ra trên tàu bay, tàu biển của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang hoạt động ngoài không phận hoặc ngoài lãnh hải của Việt Nam được quy định tại Điều 270 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 như sau:
“Tội phạm xảy ra trên tàu bay hoặc tàu biển của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang hoạt động ngoài không phận hoặc ngoài lãnh hải của Việt Nam thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án Việt Nam nơi có sân bay hoặc bến cảng trở về đầu tiên hoặc nơi tàu bay, tàu biển đó được đăng ký.”
Quy định này đã được giữ nguyên theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003. Tòa án xét xử những vụ án trong trường hợp này thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án Việt Nam nơi có sân bay, bến cảng trở về đầu tiên hoặc nơi tàu bay, tàu biển đo được đăng ký.
- Chuyển vụ án
Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định về chuyển vụ án tại Điều 174 như sau:
“Khi thấy vụ án không thuộc thẩm quyền của mình thì Tòa án chuyển vụ án cho Tòa án có thẩm quyền xét xử. Việc chuyển vụ án cho Tòa án ngoài phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc ngoài phạm vi quân khu do Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu quyết định.
Chỉ được chuyển vụ án cho Tòa án khác khi vụ án chưa được xét xử. Trong trường hợp này, việc chuyển vụ án do Chánh án Tòa án quyết định. Nếu vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án quân sự hoặc Tòa án cấp trên thì vụ án đã được đưa ra xét xử vẫn phải chuyển cho Tòa án có thẩm quyền. Trong trường hợp này, việc chuyển vụ án do Hội đồng xét xử quyết định.
Trong thời hạn hai ngày, kể từ ngày ra quyết định chuyển vụ án, Tòa án phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp, báo cho bị cáo và những người có liên quan trong vụ án.”
Theo như quy định ở trên, nếu vụ án không thuộc thẩm quyền của tòa án đang thụ lý hồ sơ, thì Tòa án đó phải chuyển vụ án cho Tòa án có thẩm quyền. Vụ án phải chuyển cho Tòa án ngoài phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc ngoài phạm vi quân khu sẽ do Tòa án nhân dân cấp tỉnh hoặc Tòa án quân sự cấp quân khu quyết định việc chuyển án. Khi chuẩn bị xét xử sơ thẩm, nếu thấy vụ án đó không thuộc thẩm quyền xét xử thì vụ án phải được chuyển, việc quyết định sẽ do Chánh án Tòa án quyết định. Khi tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, nếu thấy vụ án đó không thuộc thẩm quyền xét xử thì việc chuyển án chỉ được thực hiện trong hai trường hợp, đó là: trường hợp vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án quân sự, hoặc vụ án đó thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp trên. Sau khi chuyển án từ khi có quyết định chuyển vụ án, Tòa án phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp, bị cáo và những người có liên quan biết về việc chuyển vụ án.
Bên cạnh đó, Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định tại Điều 274 như sau:
“1. Khi vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử của mình thì Tòa án trả hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát đã truy tố để chuyển đến Viện kiểm sát có thẩm quyền truy tố.
Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận lại hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát đã truy tố phải ra quyết định chuyển hồ sơ vụ án đến Viện kiểm sát có thẩm quyền truy tố để giải quyết theo thẩm quyền. Việc chuyển vụ án ra ngoài phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc ngoài phạm vi quân khu thực hiện theo quy định tại Điều 239 của Bộ luật này.
Khi xét thấy vụ án vẫn thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án đã trả hồ sơ thì Viện kiểm sát chuyển lại hồ sơ vụ án đến Tòa án kèm theo văn bản nêu rõ lý do; nếu Tòa án xét thấy vụ án vẫn không thuộc thẩm quyền xét xử của mình thì việc giải quyết tranh chấp thẩm quyền xét xử thực hiện theo Điều 275 của Bộ luật này. Viện kiểm sát phải thực hiện theo quyết định của Tòa án có thẩm quyền.
2.Thời hạn truy tố và áp dụng biện pháp ngăn chặn được thực hiện theo quy định tại Điều 240 và Điều 241 của Bộ luật này.”
Về vấn đề liên quan tới chuyển vụ án, Bộ luật mới đã có sự sửa đổi hoàn toàn so với Bộ luật hiện hành. Trong BLTTHS 2003, việc chuyển án phải do Tòa án tự mình chuyển cho Tòa án khác, không được trả hồ sơ cho Viện kiểm sát, sau khi trả thì phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp biết về việc chuyển vụ án. Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 đã quy định khác với Bộ luật hiện hành, khi vụ án không thuộc thẩm quyền của Tòa án thì Tòa án sẽ trả hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát đã ra quyết định truy tố, Viện kiểm sát sẽ chuyển tới Viện kiểm sát có thẩm quyền truy tố để giải quyết theo thẩm quyền, thời hạn chuyển là chậm nhất 3 ngày kể từ ngày nhận lại hồ sơ. Việc quy định chuyển vụ án không do Tòa án trực tiếp chuyển đi là một điểm mới tiền bộ của Bộ luật mới. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành thì sau khi thụ lý hồ sơ vụ án để chuẩn bị xét xử, nếu Toà án thấy vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án mình thì chuyển vụ án cho Toà án có thẩm quyền xét xử vụ án đó. Việc chuyển vụ án trong giai đoạn điều tra là do Cơ quan điều tra đề nghị và Viện kiểm sát quyết định, nhưng việc chuyển vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử lại do Toà án tự quyết định, Toà án chỉ thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp biết. Trong khi đó có nhiều trường hợp việc chuyển vụ án của Toà án nếu Viện kiểm sát không đồng ý thì Toà án có thẩm quyền xét xử vụ án đó cũng không xét xử được. Ví dụ: Toà án nhân dân huyện H sau khi thụ lý vụ án hình sự thấy không thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án mình, đã quyết định chuyển vụ án cho Toà án nhân dân huyện M, Toà án nhân dân huyện M cũng thấy vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án mình, nhưng Viện kiểm sát nhân dân huyện M không thay đổi bản cáo trạng vì cho rằng vụ án vẫn thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân huyện H.
Đây là vấn đề tuy không phổ biến nhưng thực tiễn xét xử đã xảy ra nhiều trường hợp do không có sự thống nhất giữa Toà án với Viện kiểm sát dẫn đến việc lẽ ra vụ án phải được chuyển cho Toà án có thẩm quyền xét xử nhưng không chuyển được hoặc Toà án “buộc phải” xét xử vụ án sai thẩm quyền để rồi bị Toà án cấp phúc thẩm hoặc Toà án cấp giám đốc thẩm huỷ bản án vì vi phạm về thẩm quyền xét xử. Ngay cả khi bản án đã bị huỷ vì xét xử không đúng thẩm quyền thì việc giải quyết vụ án đó theo thẩm quyền xét xử cũng gặp khó khăn, nếu như Viện kiểm sát và Toà án không thống nhất về thẩm quyền xét xử. Việc quy định như Bộ luật tố tụng mới, đã giải quyết được những khó khăn và thiếu xót nói trên của Bộ luật tố tụng hiện hành.
Bên cạnh đó, nếu việc chuyển vụ án ra ngoài phạm vi cấp tỉnh, cấp quân khu thì thực hiện theo Điều 239 BLTTHS 2015, đó là: “Việc chuyển vụ án cho Viện kiểm sát ngoài phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc ngoài phạm vi quân khu do Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu quyết định.” Như vậy, chuyển vụ án ra ngoài phạm vi nói trên sẽ do Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu quyết định.
Bộ luật mới đã quy định cả trường hợp Tòa án trả hồ sơ do không thuộc thẩm quyền, nhưng Viện kiểm sát có lý do cho rằng, Tòa án đó có thẩm quyền, thì Viện kiểm sát vẫn chuyển lên cho Tòa án án đó và kèm theo văn bản nêu rõ lý do. Nhưng nếu Tòa án xét thấy mình không có thẩm quyền xét xử, thì việc giải quyết tranh chấp sẽ theo Điều 275 của Bộ luật: “1. Việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa các Tòa án nhân dân cấp huyện trong cùng một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, giữa các Tòa án quân sự khu vực trong cùng một quân khu do Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu quyết định.
2.Việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa các Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau, giữa các Tòa án quân sự khu vực thuộc các quân khu khác nhau do Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu nơi kết thúc việc điều tra quyết định.
3.Việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa các Tòa án nhân dân cấp tỉnh, giữa các Tòa án quân sự cấp quân khu do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án quân sự trung ương quyết định.
4.Việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định.
Việc chuyển vụ án để xét xử theo thẩm quyền được thực hiện theo quy định tại Điều 274 của Bộ luật này.”
Như vậy, với quy định ở trên, việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền sẽ được giải quyết dựa theo quyết định của Chánh án Tòa án nhân dân, Chánh án Tòa án quân sự cấp trên xử lý.
Việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền theo như luật mới ở trên cũng có những sửa đổi, bổ sung hợp lý hơn so với Bộ luật hiện hành. Cụ thể, theo BLTTHS 2003 việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử được quy định tại Điều 175 như sau: “1. Việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử do Chánh án Tòa án cấp trên trực tiếp quyết định.
2.Việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa các Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau, do Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi kết thúc việc điều tra quyết định.
3.Việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa Toà án nhân dân và Tòa án quân sự do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định.”
Nhìn vào hai điều luật, có thể thấy quy định về việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền của Bộ luật mới cụ thể hơn Bộ luật hiện hành. Theo bộ luật hiện hành chỉ quy định chung tại khoản 1 là việc giải quyết tranh chấp do Chánh án Tòa án cấp trên quyết định còn ở bộ luật mới, nhà làm luật đã sửa đổi, quy định chi tiết từng trường hợp tranh chấp về thẩm quyền giữa các Tòa án ở các cấp, Tòa án quân sự và Tòa án nhân dân. Việc quy định này giúp đảm bảo việc giải quyết được nhanh chóng, chính xác, có thể thấy ngay được ai là người ra quyết định giải quyết việc tranh chấp khi rơi vào các trường hợp được quy định trong luật, từ đó, việc thực hiện và áp dụng luật cũng trở lên dễ dàng, hiệu quả hơn.
Tham khảo thêm:
- Để được Q ( người đàn ông lớn tuổi, nhiều tiền và đã có vợ con) cung phụng tiền bạc cho việc ăn chơi, T( 16 tuổi 3 tháng) rủ M, H, N
- Về vị trí,tính chất, chức năng của chính phủ
- Về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ
- Cơ cấu tổ chức Chính phủ
- Quy định về Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
- Chức năng tổ chức và quản lí văn hóa, giáo dục, khoa học – công nghệ của Nhà nước Việt Nam hiện nay
- So sánh và đánh giá chế định hợp đồng của Bộ luật Hammurabi và Luật Dân sự La Mã thời kì cộng hòa hậu kì và thời kì quân chủ
- Lí luận về hàng hóa sức lao động của CMác với thị trường sức lao động (thị trường lao động) ở Việt Nam hiện nay
- Phân tích vai trò của các yếu tố đối với sự hình thành, phát triển nhân cách
- Phân tích nội dung và ý nghĩa “nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”