Nói đến tiền là nói đến sự ổn định của tiền, mà sự ổn định của tiền liên quan mật thiết và chịu sự ràng buộc bởi hoạt động của toàn hệ thống ngân hàng. Thông qua các thao tác của mình, Ngân hàng Trung ương (NHTW) có thể làm thay đổi tiền tệ trên tất cả các mặt: lưu lượng, chi phí, giá trị… Toàn bộ các thao tác có liên quan đến tiền của NHTW luôn nằm trong hệ thống những ý đồ mang tính chiến lược mà người ta gọi là chính sách tiền tệ. Nếu chính sách tài chính tập trung vào thành phần, kết cấu các mức chi phí, thuế khoá của Nhà nước, thì chính sách tiền tệ quốc gia lại tập trung vào việc giải quyết khả năng thanh toán cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, bao gồm việc đáp ứng khối lượng tiền cung ứng cho lưu thông, điều khiển hệ thống tiền tệ và tín dụng đáp ứng vốn cho hoạt động kinh tế, tạo điều kiện thúc đẩy thị trường tiền tệ, thị trường vốn theo những quỹ đạo đã định, kiểm soát hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) và các tổ chức tín dụng khác, cùng với việc xác định tỷ giá hối đoái hợp lý nhằm ổn định và thúc đẩy kinh tế đối ngoại, hướng tới mục tiêu cuối cùng là ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả hàng hoá. Chính vì thế mà chính sách tiền tệ tác động đến nền kinh tế là một điều hiển nhiên. Xây dựng và thực hiện có hiệu quả chính sách tiền tệ quốc gia là chủ trương, mục tiêu của tất cả các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Bởi nó đóng vai trò quan trọng trong công cuộc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra và đảm bảo cho hệ thống ngân hàng và thị trường tiền tệ đi theo một định hướng cụ thể. Tuy nhiên, chính sách tiền tệ không có sự ổn định mà luôn có sự thay đổi nhất định qua từng năm. Do đó, để tìm hiểu về chính sách tiền tệ của nước ta trong giai đoạn cuối năm 2015 trở lại đây đã có những sự thay đổi và được thực thi thế nào, em đã chọn đề tài: “Tìm hiểu việc thực thi chính sách tiền tệ quốc gia của Việt Nam trong giai đoạn cuối năm 2015 trở lại đây và đề xuất ý kiến pháp lý” để trình bày dưới đây.
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ QUỐC GIA
1. Khái niệm
Chính sách tiền tệ quốc gia là các quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bao gồm quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra[1].
Theo đó, tùy vào từng giai đoạn và hoàn cảnh cụ thể thì Ngân hàng Nhà nước có thể điều chỉnh chính sách tiền tệ theo hai hướng: chính sách tiền tệ mở rộng (tăng cung tiền, giảm lãi suất để thúc đẩy sản xuất kinh doanh, giảm thất nghiệp nhưng lạm phát tăng) và chính sách tiền tệ thắt chặt (giảm cung tiền, tăng lãi suất làm giảm đầu tư vào sản xuất kinh doanh, giảm lạm phát nhưng thất nghiệp tăng).
2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ được xây dựng và thực thi nhằm các mục tiêu cụ thể như sau:
Một là, ổn định giá cả, kiểm soát lạm phát là mục tiêu quan trọng của chính sách tiền tệ. Ổn định giá cả có tầm quan trọng để định hướng phát triển kinh tế của quốc gia vì nó làm tăng khả năng dự đoán những biến động của môi trường kinh tế vĩ mô. Mức lạm phát thấp và ổn định tạo nên môi trường đầu tư ổn định, thúc đẩy nhu cầu đầu tư và đảm bảo sự phân bổ nguồn lực xã hội một cách hiệu quả.
Hai là, ổn định tỷ giá hối đoái. Cùng với xu thế hội nhập với thế giớ, hàng hóa được trao đổi trên phạm vi toàn cầu thì việc chuyển đổi giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ cũng được chú trọng. Việc kiểm soát được trị giá của đồng nội tệ và đồng ngoại tệ sẽ giúp cho các hoạt động kinh tế hiệu quả hơn. Mặt khác, tỷ giá hối đoái còn ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của hàng hóa trong nước với hàng hóa nước ngoài về mặt giá cả.
Ba là, ổn định lãi suất. Việc duy trì mức lãi suất phù hợp với điều kiện kinh tế quốc gia sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, các cá nhân lập kế hoạch kinh doanh hoặc chi tiêu hợp lý, góp phần ổn định môi trường kinh tế vĩ mô.
Bốn là, ổn định thị trường tài chính. Thị trường tài chính giúp điều hòa nguồn vốn từ nơi dư thừa đến nơi thiếu hụt một cách hợp lý. Vì vậy, sự ổn định của thị trường tài chính có ý nghĩa quan trọng với nền kinh tế quốc gia.
Năm là, tăng trưởng kinh tế. Chính sách tiền tệ phải đảm bảo sự tăng lên của GDP thực tế, tức là tỷ lệ tăng trưởng có được sau khi trừ đi tỷ lệ tăng giá cùng thời kỳ. Một nền kinh tế phồn thịnh với tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định là nền tảng cho mọi sự ổn định.
Sáu là, giảm tỉ lệ thất nghiệp. Đây là mục tiêu quan trọng đối với tất cả các chính sách kinh tế của quốc gia bởi nó phản ánh khả năng sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực cũng như khả năng phát triển của nền kinh tế. Thêm vào đó, nếu tỉ lệ thất nghiệp tăng sẽ làm thay đổi cơ cấu ngân sách và tăng tệ nạn xã hội.
3. Thẩm quyền quyết định chính sách tiền tệ quốc gia
Chính sách tiền tệ có tác động rất lớn đến tình hình phát triển của một quốc gia về nhiều mặt, do đó, việc quyết định về chính sách tiền tệ cũng được quy định cho cơ quan có thẩm quyền, cụ thể:
Thẩm quyền quyết định chính sách tiền tệ quốc gia bao gồm:
– Quốc hội quyết định chỉ tiêu lạm phát hằng năm được thể hiện thông qua việc quyết định chỉ số giá tiêu dùng và giám sát việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
– Chủ tịch nước thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do Hiến pháp và pháp luật quy định trong việc đàm phán, ký kết, gia nhập điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng.
– Chính phủ trình Quốc hội quyết định chỉ tiêu lạm phát hằng năm. Thủ tướng Chính phủ, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định việc sử dụng các công cụ và biện pháp điều hành để thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia theo quy định của Chính phủ[2].
4. Các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia
Các công cụ để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia bao gồm:
– Tái cấp vốn;
– Lãi suất;
– Tỷ giá hối đoái;
– Dự trữ bắt buộc;
-Nghiệp vụ thị trường mở.
Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 2010 quy định Thống đốc Ngân hàng nhà nước quyết định việc sử dụng các công cụ và biện pháp điều hành để thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia theo quy định của Chính phủ. Cụ thể như sau:
- Tái cấp vốn: là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng nhà nước nhằm cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho các tổ chức tín dụng. Ngân hàng nhà nước quy định và thực hiện việc tái cấp vốn cho tổ chức tín dụng theo các hình thức sau đây:
- Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá;
- Chiết khấu giấy tờ có giá;
- Các hình thức tái cấp vốn khác.
Công cụ này có các ưu điểm là các khoản cho vay của ngân hàng trung ương đều được đảm bảo bằng các giấy tờ có giá do nó có khả năng tự thanh toán. Đồng thời hình thức tái chiết khấu có tính chất chủ động trong việc thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng hay thắt chặt. Bên cạnh đó nó cũng tồn tại nhược điểm đó là ngân hàng trung ương ở tình trạng thụ động do việc vay hay không vay nằm ở ngân hàng thương mại.
- Lãi suất: Ngân hàng nhà nước công bố lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cơ bản và các loại lãi suất khác để điều hành chính sách tiền tệ, chống cho vay nặng lãi. Trong trường hợp thị trường tiền tệ có diễn biến bất thường, Ngân hàng nhà nước quy định cơ chế điều hành lãi suất áp dụng trong quan hệ giữa các tổ chức tín dụng với nhau và với khách hàng, các quan hệ tín dụng khác. Đây là công cụa linh hoạt được nhà nước sử dụng để điều hành chính sách tiền tệ quốc gia. Theo đó Ngân hàng nhà nước công bố lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn và quy định lãi suất cơ bản làm cơ sở cho các ngân hàng thương mại xác định lãi suất cho vay, từ đó điều chỉnh lãi suất cho vay, lãi suất chiết khấu, lãi suất tiền gửi cho các ngân hàng thương mại.
- Tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam được hình thành trên cơ sở cung cầu ngoại tệ trên thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, Ngân hàng nhà nước công bố tỉ giá hối đoái, quyết định chế độ tỉ giá, cơ chế điều hành tỉ giá. Ngân hàng trung ương can thiệp vào thị trường hối đoái nhằm ổn định tỷ giá hối đoái bằng cách mua hoặc bán một lượng ngoại tệ:
– Khi tỷ giá giảm mạnh thì ngân hàng trung ương đưa tiền mặt ra mua ngoại tệ, dẫn đến giá trị ngoại tệ lên cao, đồng nội tệ giảm giá trị làm cho tỷ giá được cải thiện nhưng sẽ làm gia tăng lượng tiền trong lưu thông.
– Khi tỷ giá hối đoái tăng thì ngân hàng trung ương đưa ngoại tệ ra bán dẫn đến giá trị ngoại tệ giảm, làm tỷ giá được cải thiện nhưng giảm lượng tiền trong lưu thông.
Kết quả của sự can thiệp của ngân hàng trung ương vào thị trường hối đoái nhằm ổn định tỷ giá hối đoái, giữ vững sức mua của đồng nội tệ làm cho tiền lưu thông tăng lên hoặc giảm đi.
- Dự trữ bắt buộc: là số tiền mà tổ chức tín dụng phải gửi tại Ngân hàng Nhà nước để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Ngân hàng nhà nước quy định tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với từng loại hình tổ chức tín dụng và từng loại tiền gửi tại tổ chức tín dụng nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Cụ thể tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VNĐ áp dụng theo QĐ 379/QĐ-NHNN ngày 24/2/2009 (áp dụng từ kỳ dự trữ tháng 3/2009), tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng USD áp dụng theo QĐ 1925/QĐ-NHNN ngày 26/8/2011(áp dụng từ kỳ dự trữ tháng 9/2011) như sau:
Loại tổ chức tín dụng
|
Tiền gửi VNĐ | Tiền gửi ngoại tệ | ||
Không kỳ hạn và dưới 12 tháng | Từ 12 tháng trở lên | Không kỳ hạn và dưới 12 tháng | Từ 12 tháng trở lên | |
Các NHTM Nhà nước (không bao gồm NHNN&PTNT), NHTMCP đô thị, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính | 3% | 1% | 8% | 6% |
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn | 1% | 1% | 7% | 5% |
NHTMCP nông thôn, ngân hàng hợp tác, quỹ tín dụng nhân dân trung ương | 1% | 1% | 7% | 5% |
TCTD có số dư tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc dưới 500 triệu đồng, QTDND cơ sở, Ngân hàng Chính sách xã hội | 0% | 0% | 0% | 0% |
Mục đích của việc thực hiện dự trữ bắt buộc là nhằm:
Duy trì khả năng thanh toán thường xuyên của các ngân hàng trung gian hoặc trong những trường hợp khẩn cấp như trường hợp xảy ra tình trạng đồng loạt rút tiền gửi của công chúng, tránh được sự khủng hoảng ngân hàng.
Giới hạn khả năng cho vay của ngân hàng trung gian, tránh trường hợp ngân hàng quá ham kiếm lợi nhuận bằng cách cho vay quá mức làm phương hại tới quyền lợi của người ký gửi tiền ở ngân hàng, đảm bảo an toàn tiền gửi của khách hàng.
Việc tập trung dự trữ của các ngân hàng trung gian ở Ngân hàng nhà nước còn là một phương tiện để Ngân hàng Nhà nước có thêm quyền lực điều khiển hệ thống ngân hàng tạo sự lệ thuộc của các ngân hàng vào Ngân hàng Nhà nước.
- Nghiệp vụ thị trường mở: là nghiệp vụ Ngân hàng nhà nước thực hiện thông qua việc mua, bán giấy tờ có giá đối với tổ chức tín dụng để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Nghiệp vụ thị trường mở chủ yếu có hai loại: mua bán giấy tờ có giá dài hạn và mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn. Ở Việt Nam, nghiệp vụ thị trường mở chỉ là việc mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn như tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu Ngân hàng nhà nước và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở tác động nhanh, linh hoạt và chủ động. Nó có thể hạn chế được những khiếm khuyết của công cụ dự trữ bắt buộc. Tuy nhiên, hạn chế của nó là chỉ có thể áp dụng trong điều kiện mà hầu hết tiền trong lưu thông đều nằm ở tài khoản tại ngân hàng.
II. THỰC THI CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ QUỐC GIA CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN CUỐI NĂM 2015 TRỞ LẠI ĐÂY
1.Chính sách tiền tệ năm 2015
1.1. Khái quát về chiến lược chính sách tiền tệ năm 2015
Trên cơ sở bám sát mục tiêu của Quốc hội tại Nghị quyết số 77/2014/QH13 ngày 10/11/2014 về kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2015 và kết quả đạt được trong điều hành năm 2014, NHNN xác định mục tiêu và các giải pháp lớn về điều hành chính sách tiền tệ năm 2015 như sau:“Điều hành chủ động và linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát, không chủ quan với lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý, đảm bảo an toàn thanh khoản của các TCTD. Điều hành lãi suất và tỷ giá phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ, đặc biệt là diễn biến của lạm phát, bảo đảm giá trị đồng Việt Nam, tiếp tục khắc phục tình trạng đô la hóa, vàng hóa trong nền kinh tế. Thực hiện các giải pháp điều hành tín dụng theo hướng mở rộng tín dụng đi đôi với kiểm soát chất lượng tín dụng; tập trung tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng phục vụ phát triển sản xuất, kinh doanh; tiếp tục triển khai các chương trình gắn kết tín dụng ngân hàng với chính sách ngành kinh tế, chuyển dịch cơ cấu tín dụng theo hướng tập trung vốn cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ. Đẩy nhanh tiến độ xử lý nợ xấu gắn với cơ cấu lại các TCTD, đảm bảo thực hiện đúng lộ trình của Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Tăng cường phối hợp với các chính sách vĩ mô khác”[3].
Theo đó, nhiệm vụ được cụ thể hóa để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia là:
– Điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa nhằm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra (dưới 5%), ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý (6,2%), bảo đảm thanh khoản của các tổ chức tín dụng và nền kinh tế, duy trì ổn định mặt bằng lãi suất, phấn đấu tiếp tục giảm mặt bằng lãi suất cho vay trung, dài hạn thêm từ 1%/năm đến 1,5%/năm, hỗ trợ thị trường tài chính trong huy động vốn cho đầu tư phát triển. Năm 2015, định hướng tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 16-18%, tín dụng tăng khoảng 13-15%, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế; ổn định tỷ giá (mức điều chỉnh không quá 2%), thị trường ngoại tệ, thị trường vàng. Tổ chức thực hiện các giải pháp về tiền tệ, hoạt động ngân hàng để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ gia đình tiếp cận nguồn vốn tín dụng phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng mở rộng tín dụng đi đôi với an toàn, chất lượng tín dụng, đảm bảo cung ứng vốn cho nền kinh tế. Ưu tiên tập trung tín dụng cho các lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
– Triển khai đồng bộ các giải pháp về hoàn thiện thể chế, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát để bảo đảm hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng an toàn, tuân thủ theo quy định của pháp luật. Tập trung đẩy nhanh tiến độ xử lý nợ xấu gắn với cơ cấu lại các tổ chức tín dụng, phấn đấu đến cuối năm đưa tỷ lệ nợ xấu xuống dưới 3%. Tiếp tục triển khai Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015, phấn đấu về cơ bản thực hiện đầy đủ các nội dung của Đề án.[4]
1.2. Thực thi chính sách tiền tệ năm 2015
Trên cơ sở thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về việc thực hiện chính sách tiền tệ, Ngân hàng nhà nước đã triển khai các biện pháp điều hành chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý và đạt được những kết quả nhất định. Cụ thể:
Một là, lượng tiền cung ứng tiếp tục được điều hành phù hợp theo mục tiêu hỗ trợ ổn định tỷ giá và thị trường ngoại hối, kiểm soát lạm phát nhưng vẫn đảm bảo hài hòa với các mục tiêu giảm lãi suất, tăng tín dụng hợp lý, hỗ trợ các TCTD đầu tư trái phiếu Chính phủ và xử lý nợ xấu. Tổng phương tiện thanh toán đến ngày 21/12/2015 tăng 13,55% so với cuối năm trước, phù hợp với kinh tế vĩ mô, tiền tệ và các giải pháp điều hành của NHNN. Mặt bằng lãi suất giảm nhưng huy động vốn vẫn tăng (đến ngày 21/12/2015, huy động vốn tăng 13,59% so với cuối năm trước) tạo điều kiện cho các TCTD cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế.
Hai là, lãi suất thị trường tiếp tục giảm khoảng 0,2-0,5%/năm, qua đó hỗ trợ tích cực cho hoạt động sản xuất kinh doanh những vẫn đảm bảo ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối. Trong năm 2015, NHNN duy trì ổn định lãi suất điều hành, trần lãi suất huy động bằng VNĐ, kết hợp với điều chỉnh giảm trần lãi suất USD, đảm bảo duy trì chênh lệch hợp lý giữa lãi suất VNĐ và lãi suất USD. Các TCTD trên cơ sở nhu cầu vốn của thị trường cân đối điều chỉnh giảm lãi suất cho vay so với trần quy định điều tiết thanh khoản của các TCTD hợp lý để tạo điều kiện giảm mặt bằng lãi suất, điều chỉnh giảm lãi suất cho vay một số chương trình tín dụng ngành, lĩnh vực xuống mức khoảng 6,5 – 6,6%/năm, yêu cầu các TCTD rà soát giảm lãi suất cho vay của các khoản vay cũ về mức lãi suất cho vay hiện hành[5].
Mặt bằng lãi suất cho vay giảm khoảng 0,3-0,5%/năm so với cuối năm trước (lãi suất ngắn hạn giảm khoảng 0,3%/năm, lãi suất trung và dài hạn giảm khoảng 0,3-0,5%/năm), đưa mặt bằng lãi suất giảm khoảng 50% so với thời điểm cuối năm 2011; Lãi suất huy động giảm khoảng 0,2-0,5%/năm và hiện ở mức tương đối thấp.
Ba là, tỷ giá và thị trường ngoại tệ tiếp tục được giữ ổn định, niềm tin vào đồng tiền Việt Nam được củng cố, tình trạng đô-la hoá trong nền kinh tế tiếp tục giảm, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp của tổ chức, cá nhân đều được đáp ứng đầy đủ, kịp thời.
Bốn là, tăng trưởng tín dụng tăng cao hơn năm trước. Tính đến ngày 21/12/2015, tín dụng tăng 17,17% so với đầu năm, cao hơn mức tăng của cùng kỳ các năm 2011-2014. Dòng vốn tín dụng tiếp tục được phân bổ hợp lý, hướng tới các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là các ngành, lĩnh vực ưu tiên của chính phủ (cho vay đối với lĩnh vực nông nghiệp nông thôn đến tháng 12/2015 tăng 11%…)[6]. Dòng vốn tín dụng tiếp tục được phân bổ hợp lý, hướng tới các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là các ngành, lĩnh vực ưu tiên của Chính phủ (cho vay đối với lĩnh vực nông nghiệp nông thôn tăng ước đến tháng 12/2015 tăng 11%, lĩnh vực doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao tăng tháng 10/2015 tăng 45,13%…). Các chương trình, chính sách tín dụng ngành, lĩnh vực, người nghèo và các đối tượng chính sách khác theo chỉ đạo của Chính phủ,Thủ tướng Chính phủ tiếp tục được hệ thống ngân hàng đẩy mạnh triển khai, mang lại hiệu quả thiết thực cho nền kinh tế và xã hội.
Năm là, thanh khoản VNĐ của hệ thống các TCTD tiếp tục được đảm bảo và có dư thừa, sẵn sàng đáp ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế, thị trường tiền tệ ổn định, thông suốt nhờ thực hiện đồng bộ các giải pháp cung ứng tiền, phối hợp công cụ hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD, các TCTD tăng cường xử lý nợ xấu, cơ cấu lại tài sản, chú trọng hơn trong quản trị rủi ro thanh khoản, đảm bảo an toàn hệ thống.
Sáu là, hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt, thay vào đó là sử dụng các hình thức thanh toán trực tuyến tiếp tục được phát triển mạnh mẽ, đang dần đi vào cuộc sống, phù hợp với xu thế thanh toán của các nước trong khu vực và trên thế giới.
Bảy là, thị trường vàng trong nước diễn biến ổn định, cung cầu trên thị trường tương đối cân bằng giá vàng trong nước không còn bị tác động bởi các nhân tố như sự biến động của giá vàng thế giới và sự biến động tăng của tỷ giá USD/VNĐ. Trong năm 2015, tại nhiều thời điểm thị trường thế giới biến động đột biến nhưng thị trường vàng trong nước vẫn cơ bản ổn định, cung cầu trên thị trường tương đối cân bằng. Thị trường vàng tự điều tiết theo quy luật cung cầu, NHNN không phải sử dụng ngoại tệ để nhập khẩu vàng can thiệp, bình ổn thị trường vàng miếng, tình trạng vàng hóa tiếp tục được ngăn chặn, góp phần ổn định tỷ giá, thị trường ngoại hối và ổn định kinh tế vĩ mô.
2. Chính sách tiền tệ năm 2016
2.1. Khái quát chiến lược chính sách tiền tệ 2016
Chỉ thị số 01/CT-NHNN về tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ (CSTT) và đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả năm 2016 ban hành trên cơ sở thực hiện Nghị quyết số 98/2015/QH13 ngày 10/11/2015 của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2016, Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 07/01/2016 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo Điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2016 (Nghị quyết số 01), Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam yêu cầu các đơn vị trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (sau đây gọi là tổ chức tín dụng) thực hiện tốt các giải pháp Điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng năm 2016 nhằm Mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý như sau:
– Điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát theo Mục tiêu đề ra (dưới 5%), ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý (Khoảng 6,7%), bảo đảm thanh Khoản của các tổ chức tín dụng và nền kinh tế, duy trì ổn định thị trường tiền tệ. Năm 2016, định hướng tổng phương tiện thanh toán tăng Khoảng 16-18%, dư nợ tín dụng tăng Khoảng 18-20%, có Điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế. Tổ chức thực hiện các giải pháp về tiền tệ, hoạt động ngân hàng để tiếp tục tạo Điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ gia đình tiếp cận nguồn vốn tín dụng thúc đẩy sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, tạo Điều kiện cho các tổ chức tín dụng mở rộng tín dụng đi đôi với an toàn, chất lượng tín dụng, đảm bảo cung ứng vốn cho nền kinh tế.
– Triển khai đồng bộ các giải pháp về hoàn thiện thể chế, tăng cường công tác thanh tra, giám sát để bảo đảm hệ thống các tổ chức tín dụng hoạt động an toàn, đúng pháp luật. Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại toàn diện đối với các tổ chức tín dụng; tập trung xử lý dứt Điểm các tổ chức tín dụng yếu kém. Tiếp tục triển khai quyết liệt các biện pháp xử lý nợ xấu và nâng cao chất lượng tín dụng. Phấn đấu duy trì bền vững tỷ lệ nợ xấu ở mức dưới 3% tổng dư nợ theo chuẩn mực phân loại nợ Việt Nam.
2.2. Thực thi chính sách tiền tệ năm 2016
Thực hiện Chỉ thị số 01/CT-NHNN về tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ (CSTT) và đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả năm 2016, CSTT tiếp tục được điều hành theo hướng chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, duy trì ổn định thị trường tiền tệ. Theo đó, NHNN đã duy trì ổn định các mức lãi suất điều hành, thông qua điều hành cung tiền hợp lý, linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở, tái cấp vốn với thời hạn và khối lượng hợp lý để hỗ trợ thanh khoản cho các tổ chức tín dụng, thực hiện mua ngoại tệ khi thuận lợi, qua đó duy trì dư thừa thanh khoản của hệ thống, đưa mặt bằng lãi suất liên ngân hàng ở mức thấp, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng giữ ổn định lãi suất huy động và giảm lãi suất cho vay khi có điều kiện. Điều này được thể hiện cụ thể như sau:
Về lãi suất, các lãi suất điều hành (lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu) được duy trì ở mức ổn định để hỗ trợ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và góp phần ổn định thị trường tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Thông qua điều hành cung tiền hợp lý, linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở, tái cấp vốn với thời hạn và khối lượng hợp lý để hỗ trợ thanh khoản cho các tổ chức tín dụng, thực hiện mua ngoại tệ khi thuận lợi, NHNN đã đảm bảo được thanh khoản của hệ thống, đưa mặt bằng lãi suất liên ngân hàng ở mức thấp, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng giữ ổn định lãi suất huy động và giảm lãi suất cho vay khi có điều kiện. Lãi suất liên ngân hàng trong năm 2016, nhìn chung, thấp hơn nhiều so với năm 2015, do nhu cầu sử dụng vốn của hệ thống chưa cao. Mặt bằng lãi suất liên ngân hàng giảm mạnh kể từ tháng 4/2016 (từ mức 4,13%) và chỉ đến tháng 11 mới có xu hướng tăng trở lại, từ mức 1,18% lên mức 3,42% trong tháng 12, do nhu cầu vay vốn trong nền kinh tế thường tăng cao vào dịp cuối năm. Lãi suất huy động mặc dù trải qua đợt tăng lãi suất nhẹ trong tháng 9 từ các ngân hàng nhỏ1, và đợt giảm lãi suất nhẹ từ các ngân hàng lớn trong tháng 102, và có tăng nhẹ trở lại trong tháng 12 tập trung ở các kỳ hạn dưới 12 tháng, nhưng nhìn chung, mặt bằng lãi suất huy động vẫn được giữ ổn định ở mức 6,5% cho kỳ hạn 1 năm và 7,2% cho kỳ hạn trên 1 năm.
Từ cuối tháng 4/2016, thực hiện chủ trương của Chính phủ và NHNN về tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, các ngân hàng thương mại nhà nước và một số ngân hàng thương mại cổ phần đã điều chỉnh giảm 0,5%/năm lãi suất cho vay ngắn hạn và đưa lãi suất cho vay trung và dài hạn về tối đa 10%/năm đối với các khách hàng vay vốn phục vụ sản xuất kinh doanh, đồng thời tích cực triển khai các chương trình cho vay với lãi suất ưu đãi. Ngoài ra, Thông tư 06/2016/TT-NHNN3 điều chỉnh tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn giảm dần theo lộ trình4 nhằm hạn chế rủi ro thanh khoản, hệ thống ngân hàng và các doanh nghiệp bất động sản có gần một năm để điều chỉnh, đã góp phần hỗ trợ giảm áp lực lãi suất cho các tổ chức tín dụng. Nhìn chung, mặt bằng lãi suất cho vay đã giảm từ 8,15% (tháng 5/2016) xuống 8,02%/năm đối với các khoản vay ngắn hạn, và giảm từ 10,2% xuống 10,1% bình quân đối với các khoản vay trung và dài hạn, sau đó tiếp tục được duy trì ổn định đến cuối năm 2016. (Hình 1)
Hình 1: Các mức lãi suất chính sách
(Nguồn: NHNN)
Về tín dụng, chính sách tín dụng được điều hành theo hướng mở rộng nhằm tăng nguồn cung ứng vốn ra nền kinh tế, hỗ trợ sản xuất kinh doanh và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tập trung vào triển khai có hiệu quả các chương trình tín dụng đối với ngành, lĩnh vực, tín dụng chính sách theo chủ trương của Chính phủ. Trong năm 2016, chính sách tín dụng được điều hành theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011: (i) Khống chế trần lãi suất cho vay với nông nghiệp nông thôn; xuất khẩu; công nghiệp hỗ trợ; DNNVV; công nghệ cao (hiện ở mức 7%/năm); (ii) Giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc và công cụ tái cấp vốn để hướng dòng vốn tín dụng vào nông nghiệp (TT20/TT-NHNN, ngày 29/9/2010); (iii) Kết hợp chính sách tín dụng của ngân hàng với chính sách tài khóa trong hỗ trợ lãi suất giảm tổn thất sau thu hoạch, với mức hỗ trợ 100% hoặc 50% theo thời gian vay phù hợp… Kết quả, trong năm 2016, tăng trưởng tín dụng ở mức hợp lý, đạt 16,46% (tính đến ngày 20/12/2016) so với cuối năm 2015.
Để đạt được những kết quả trên, nhiều giải pháp tín dụng đã được triển khai trong nhằm hỗ trợ thị trường như:
Một là, trần tăng trưởng tín dụng được kiểm soát nhưng có sự điều chỉnh linh hoạt theo TCTD. Năm 2016, trần tăng trưởng tín dụng 18 – 20% (có phân bổ theo từng nhóm TCTD) nhưng trên thực tế, tăng trưởng tín dụng đã được điều chỉnh linh hoạt cho các TCTD có điều kiện mở rộng tín dụng và đảm bảo hoạt động an toàn.
Hai là, nhằm chống đô la hóa trong nền kinh tế, quan hệ mua – bán ngoại tệ tiếp tục được thực hiện thay cho quan hệ huy động – cho vay ngoại tệ nhưng có sự điều chỉnh linh hoạt theo thời điểm. Trong đó, trước bối cảnh hoạt động sản xuất, kinh doanh đang gặp khó khăn do chi phí đầu vào cao, sức cạnh tranh của hoạt động xuất khẩu hạn chế, ngày 27/5/2016, NHNN đã ban hành Thông tư số 07/2016/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 24/2015/TT-NHNN quy định hoạt động cho vay bằng ngoại tệ. Theo đó, một nhóm đối tượng là các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ lại được vay vốn ngắn hạn bằng ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu vốn ở trong nước nhằm thực hiện phương án sản xuất, kinh doanh hàng hóa xuất khẩu qua cửa khẩu biên giới Việt Nam mà khách hàng vay có đủ ngoại tệ từ nguồn thu xuất khẩu để trả nợ vay đến hết ngày 31/12/2016, sau khi đã có quy định dừng cho vay với đối tượng này từ 01/4/2016. Tiếp đó, ngày 15/11/2016, NHNN ban hành Thông tư số 31/2016/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 24/2015/TT-NHNN thay thế Thông tư 07/2016/TT-NHNN quy định cho vay bằng ngoại tệ của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng vay là người cư trú. Quy định này có hiệu lực thi hành từ 01/01/2017 và được thực hiện đến hết ngày ngày 31/12/2017. Việc mở lại tín dụng ngoại tệ cho doanh nghiệp (DN) xuất khẩu, NHNN mở lại một kênh vốn có lãi vay thấp hơn nhiều so với vay VND, để hỗ trợ DN và gián tiếp là hỗ trợ cho các hộ dân trong chuỗi liên kết.
Ba là, nâng cao chất lượng quản trị ngân hàng, giảm rủi ro tín dụng và hạn chế tăng trưởng tín dụng nóng thông qua việc ban hành Thông tư số 06/2016/TT-NHNN nâng hệ số rủi ro của các khoản phải đòi để kinh doanh bất động sản từ 150% lên 200% từ thời điểm 01/01/2017, giảm có lộ trình tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn xuống 40% từ 01/01/2018 và tăng tỷ lệ mua, đầu tư trái phiếu Chính phủ so với nguồn vốn ngắn hạn bình quân của tháng liền kề trước của TCTD. Ngoài ra, Chỉ thị số 04/CT-NHNN gần đây cũng nêu rõ yêu cầu các đầu mối giám sát chặt chẽ và cảnh báo TCTD có quy mô và tốc độ tăng trưởng tín dụng ở một số ngành, lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như tín dụng trung, dài hạn, tín dụng đối với nhóm khách hàng lớn, tín dụng đối với lĩnh vực đầu tư, kinh doanh bất động sản, tín dụng đối với các dự án BOT, BT giao thông.
Bốn là, nhằm thúc đẩy quá trình xử lý nợ xấu, trong năm 2016, NHNN đã ban hành nhiều văn bản, quyết định, thông tư liên quan đến việc hình thành thị trường mua bán nợ xấu, như: Thông tư 08/2016/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 19/2013/TT-NHNN quy định về việc mua, bán và xử lý nợ xấu của Công ty Quản lý tài sản các TCTD (VAMC) theo cơ chế thị trường giúp tăng tính chủ động và quyền hạn cho VAMC; Quyết định 618/QĐ-NHNN cho phép VAMC chính thức được triển khai phương án mua bán nợ xấu theo cơ chế thị trường.
Về tỷ giá hối đoái, chính sách điều hành tỷ giá được điều hành theo hướng linh hoạt nhằm đáp ứng những yêu cầu từ bối cảnh thương mại và đầu tư quốc tế, tăng cường ký kết các hiệp định thương mại tự do. Theo cơ chế tỷ giá mới, tỷ giá trung tâm được NHNN công bố hàng ngày, vào trước phiên giao dịch, dựa trên cơ sở tham chiếu 3 yếu tố: (i) Diễn biến tỷ giá bình quân gia quyền trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng; (ii) Diễn biến của đồng USD và một số đồng ngoại tệ trên thị trường quốc tế; và (iii) Các cân đối kinh tế vĩ mô, tiền tệ, mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ và chính sách kinh tế vĩ mô. Trên thực tế, trong năm 2016, tỷ giá trung tâm đã được điều chỉnh linh hoạt nhằm ứng phó với biến động trên thị trường tài chính tiền tệ quốc tế (tiêu biểu như: Sự kiện người dân Anh bỏ phiếu ủng hộ Liên Hiệp Vương Quốc Anh rời khỏi khối Liên minh châu Âu (Brexit); Kết quả bầu cử tổng thống Mỹ và những biến động với đồng USD).
Với cơ chế tỷ giá trung tâm, năm 2016, tỷ giá USD/VND không có nhiều biến động lớn. Đến cuối tháng 12 (tính đến 21/12), tỷ giá USD/VND trên thị trường tự do giữ ở mức 23.176, tăng 2,3% so với cuối năm 2015. Sự ổn định của tỷ giá hối đoái được duy trì nhờ các yếu tố hỗ trợ như: (i) Cơ chế tỷ giá trung tâm và các công cụ điều tiết thị trường ngoại hối đang dần phát huy được hiệu quả, hạn chế hành vi đầu cơ, găm giữ ngoại tệ; (ii) Nguồn cung ngoại tệ tương đối dồi dào do cán cân thương mại tiếp tục thặng dư, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng trưởng khả quan; (iii) Hầu hết các đồng tiền trong rổ tính tỷ giá trung tâm của NHNN đều lên giá so với đồng USD đã giúp giải tỏa sức ép lên tỷ giá USD/VND. Sự ổn định của tỷ giá trong 10 tháng đầu năm đã giúp NHNN tích trữ được một lượng ngoại hối lên tới 40 tỷ USD. Ngoài ra, tỷ giá ổn định cũng giúp giảm tình trạng đô la hóa, tỷ lệ USD trên tổng phương tiện thanh toán (M2) giảm xuống còn 10%, tương đương mức đô la hóa nhẹ của theo tiêu chuẩn của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF).
Tuy nhiên, trong hai tháng cuối năm, tỷ giá trong nước diễn biến tăng mạnh do những biến động từ thị trường tài chính quốc tế như: (i) Kết quả cuộc bầu cử tổng thống Mỹ; (ii) Cục dự trữ Liên bang Mỹ (FED) quyết định tăng lãi suất cơ bản USD lên mức từ 0,5-0,75% vào ngày 14/12/2016, tiếp tục đưa ra thông điệp về việc có thể nâng lãi suất thêm 3 lần nữa trong năm 2017. Cách thức điều hành tỷ giá mới linh hoạt hơn đã giúp cho tỷ giá biến động hàng ngày theo kịp với những diễn biến trên thị trường trong nước và quốc tế[7].
3. Chính sách tiền tệ năm 2017
3.1. Khái quát chiến lược chính sách tiền tệ năm 2017
Thực hiện Nghị quyết số 23/2016 của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2017, Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2017 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2017, ngày 10/01/2017, NHNN đã ban hành Chỉ thị số 01/CT-NHNN về tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ (CSTT) và đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả năm 2017. Theo đó, Thống đốc Ngân hàng nhà nước yêu cầu các đơn vị trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (sau đây gọi là tổ chức tín dụng) thực hiện tốt các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng năm 2017 nhằm mục tiêu kiểm soát lạm pháp, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế hợp lý như sau:
– Điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra (bình quân khoảng 4%), ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý ( khoảng 6,7%); bảo đảm thanh khoản của các tổ chức tín dụng, ổn định thị trường tiền tệ. Năm 2017, định hướng tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 16-18%, tín dụng tăng khoảng 18%, có điều chỉnh phù hợp với diến biến, tình hình thực tế. Tổ chức thực hiện các giải pháp về tiền tệ, hoạt động ngân hàng để tiếp tục tạo điều kiện cho tổ chức tín dụng mở rộng tín dụng đi đôi với an toàn, chất lượng tín dụng, đảm bảo cung ững vốn cho nền kinh tế, tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng của doanh nghiệp và người dân.
– Tăng cường công tác thanh tra, giám sát trong hoạt động ngân hàng bảo đảm hệ thống tổ chức tín dụng hoạt động an toàn, lành mạnh. Tiếp tục triển khai cơ cấu lại tổ chức tín dụng và đẩy mạnh xử lý nợ xấu, duy trì tỷ lệ nợ xấu bền vững dưới 3% tổng dư nợ, nâng cao quy định an toàn dối với hoạt động của tổ chức tín dụng theo nguyên tắc từng bước hoàn thiện theo các thông lệ, chuẩn mực an toàn quốc tế. Hình thành và phát triển thị trường mua bán nợ, trên cơ sở hoàn thiện hệ thống pháp luật và các điều kiện để thực hiện mua bán nợ theo cơ chế thị trường.
3.2. Thực thi chính sách tiền tệ nửa đầu năm 2017
Trên cơ sở các mục tiêu đã đề ra, trong 6 tháng đầu năm 2017, NHNN tiếp tục điều hành đồng bộ, linh hoạt các công cụ CSTT nhằm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra, ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý, đồng thời đảm bảo ổn định thị trường tiền tệ. Một số kết quả trong điều hành CSTT và hoạt động ngân hàng 6 tháng đầu năm:
-Điều hành các chỉ tiêu tiền tệ tăng hợp lý (đến ngày 30/6, tổng phương tiện thanh toán tăng 6,82% so với cuối năm 2016), hỗ trợ kiểm soát lạm phát theo mục tiêu trong điều kiện giá các mặt hàng Nhà nước quản lý tiếp tục được điều chỉnh theo lộ trình.
– Giữ ổn định mặt bằng lãi suất trong 6 tháng đầu năm mặc dù có sức ép tăng do lạm phát cuối năm 2016, đầu năm 2017 ở mức cao, tín dụng tăng nhanh ngay từ đầu năm, trái phiếu Chính phủ (TPCP) tiếp tục phát hành với khối lượng lớn, kỳ hạn dài, thị trường ngoại tệ chịu sức ép trước việc Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) tăng lãi suất. Trên cơ sở khả năng kiểm soát lạm phát và tạo điều kiện cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, NHNN đã chỉ đạo và từ ngày 10/7/2017, các TCTD đã thực hiện giảm 0,5% lãi suất cho vay ngắn hạn đối với các lĩnh vực ưu tiên, như vậy mặt bằng lãi suất hiện nay khoảng 6-6,5%/năm đối với kỳ hạn ngắn và khoảng 8-10,5% đối với trung và dài hạn,lãi suất cho vay ngắn hạn đối với khách hàng tốt khoảng 4-5%/năm.
– Thực hiện các giải pháp tín dụng để tạo điều kiện tăng trưởng tín dụng tăng ngay từ những tháng đầu năm hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế. Kết quả, khác với các năm trước, tín dụng đối với nền kinh tế đã liên tục tăng nhanh và đều qua các tháng từ đầu năm, không có tình trạng tín dụng tăng thấp vào đầu năm và dồn vào những tháng cuối năm như những năm trước; đến ngày 30/6/2017 tăng 9,06% so với cuối năm trước và là mức cao so với cùng kỳ các năm gần đây nhưng vẫn đảm bảo chất lượng tín dụng. Cơ cấu tín dụng đã tập trung chủ yếu vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, trong đó, tín dụng đối với một số ngành kinh tế trọng điểm tăng cao hơn so với mức tăng chung của toàn hệ thống; tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro tăng chậm lại.
– Tỷ giá và thị trường ngoại tệ ổn định mặc dù Fed tăng lãi suất, nhập siêu tiếp diễn; thanh khoản thị trường tốt, đáp ứng đầy đủ, kịp thời các nhu cầu hợp lý, hợp pháp của tổ chức, cá nhân, NHNN tiếp tục mua được ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại hối nhà nước.
– Công tác tái cơ cấu, xử lý nợ xấu cũng được triển khai quyết liệt; nhờ đó, nợ xấu được kiểm soát ở mức dưới 3%, hoạt động của các TCTD an toàn, lành mạnh[8].
4. Nhận xét chung về chính sách tiền tệ giai đoạn cuối 2015 trở lại đây
Mặc dù trong quá trình thực hiện còn gặp nhiều khó khăn, thách thức, NHNN đã có sự chủ động, linh hoạt trong điều hành chính sách tiền tệ. Những kết quả đạt được cho thấy giai đoạn cuối năm 2015 trở lại đây là giai đoạn thành công trong việc điều hành chính sách tiền tệ. Có thể thấy, bắt đầu từ giai đoạn cuối năm 2015, việc điều hành và thực hiện chính sách tiền tệ ở nước ta đã đạt được những kết quả khởi sắc.
Qua đó, kết hợp với những kết quả đạt được đã nêu ra, cho thấy chính sách tiền tệ đã có đóng góp quan trọng trong việc duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, lạm phát cả năm ở mức thấp (khoảng 1-2%), đánh dấu thời kỳ ổn định lạm phát dài nhất trong một thập kỷ qua, đồng thời hỗ trợ tăng trưởng kinh tế năm 2015 đạt trên 6,5%, mức cao nhất trong 5 năm gần đây (2011-2015). Năm 2015 đánh dấu năm thứ 4 liên tiếp ngành ngân hàng hoàn thành tốt các chỉ tiêu mà Đảng và Chính phủ giao, góp phần vào việc thực hiện thành công kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2011-2015 của đất nước.
Thực thi chính sách tiền tệ năm 2016 và 6 tháng đầu năm 2017 cho thấy, chính sách tiền tệ sẽ tiếp tục được duy trì theo hướng chủ động, linh hoạt, nới lỏng thận trọng, nhằm ổn định thị trường tiền tệ, bảo đảm thanh khoản hệ thống, cung ứng vốn có hiệu quả cho nền kinh tế, hỗ trợ ổn định tỷ giá, tạo điều kiện tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước phù hợp với điều kiện thực tế và kiểm soát lạm phát theo mục tiêu.
Việc các ngân hàng giảm lãi suất cho vay xuống mức hợp lý đã giúp cho các doanh nghiệp đến gần hơn với nguồn vốn, giảm áp lực trả nợ, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ. Từ đó, tạo sự chủ động, thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh.
Tỷ giá hối đoái và thị trường ngoại tệ ổn định sẽ giúp doanh nghiệp tiếp cận gần hơn với ngoại tệ, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều hành chính sách tỷ giá mặc dù phải chịu nhiều sức ép nhưng NHNN đã có những biện pháp nhất định đồng thời phối hợp với chính sách lãi suất và các công cụ chính sách tiền tệ, quản lý ngoại hối và công tác truyền thông để ổn định thị trường ngoại tệ, nâng cao niềm tin vào đồng Việt Nam.
Không chỉ giữ được lòng tin trong người dân và các doanh nghiệp, trong những thành công của chính sách tiền tệ cũng được các tổ chức, nhà đầu tư nước ngoài đánh giá cao, đồng thời là một trong những yếu tố quan trọng để các tổ chức xếp hạng quốc tế nâng mức xếp hạng quốc gia của Việt Nam.
Thị trường vàng ngày càng được cân bằng, ổn định. Quá trình xử lý nợ xấu cũng đạt được những kết quả nhất định. Các phương thức thanh toán ngày càng phong phú, đa dạng, phù hợp với sự thay đổi của nền kinh tế thế giới.
III. MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP TRONG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG THỜI GIAN TỚI
Trên cơ sở mục tiêu của Quốc hội, Chính phủ và nhiệm vụ trọng tâm của ngành, NHNN điều hành CSTT chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm bảo đảm ổn định vĩ mô và kiểm soát lạm phát; tập trung thực hiện các giải pháp:
Thứ nhất, Theo dõi sát diễn biến vĩ mô, thị trường tiền tệ trong và ngoài nước để chủ động, kịp thời thực hiện các giải pháp điều hành phù hợp. Điều hành đồng bộ, linh hoạt các công cụ CSTT nhằm ổn định thị trường tiền tệ, tạo thuận lợi cho quá trình tái cơ cấu thị trường chứng khoán và thị trường vốn, ổn định thị trường ngoại tệ, kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán, tín dụng theo định hướng đề ra.
Thứ hai, Điều hành lãi suất phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và thị trường tiền tệ nhằm ổn định mặt bằng lãi suất. Tiếp tục chỉ đạo các TCTD tiết kiệm chi phí và nâng cao hiệu quả kinh doanh để ổn định lãi suất huy động và có điều kiện phấn đấu giảm lãi suất cho vay nhằm chia sẻ khó khăn với khách hàng vay nhưng đảm bảo an toàn tài chính trong hoạt động.
Thứ ba, Tiếp tục điều hành tỷ giá trung tâm linh hoạt, phối hợp đồng bộ các giải pháp và các công cụ CSTT nhằm hỗ trợ ổn định tỷ giá, cân nhắc thận trọng việc bán can thiệp thị trường ngoại tệ trong trường hợp cung cầu ngoại tệ mất cân đối để đảm bảo tỷ giá không biến động quá mức, gây tâm lý bất ổn trên thị trường, hạn chế các yếu tố đầu cơ, găm giữ ngoại tệ làm ảnh hưởng đến mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền và kinh tế vĩ mô.
Thứ tư, Tiếp tục chỉ đạo các TCTD tập trung vốn tín dụng đối với các lĩnh vực ưu tiên, lĩnh vực sản xuất kinh doanh hiệu quả theo chỉ đạo của Chính phủ; Tiếp tục chỉ đạo thực hiện các chương trình tín dụng đặc thù của Chính phủ như lúa gạo, cà phê, thủy sản,…; Triển khai cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch và nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Nghị định 55/2015/NĐ-CP về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn; Phối hợp với các Bộ, Ngành liên quan triển khai các chính sách tín dụng, xử lý nợ tháo gỡ khó khăn cho người dân tại 4 tỉnh miền Trung; Tiếp tục phối hợp các Bộ, ngành để xử lý những khó khăn, vướng mắc nhằm đẩy mạnh việc triển khai chính sách tín dụng đối với lĩnh vực nhà ở xã hội theo Nghị định 100/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 của Chính phủ. Đồng thời, NHNN chỉ đạo các TCTD tiếp tục triển khai các chính sách nhằm tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp, người dân tiếp cận nguồn vốn tín dụng để phát triển SXKD, đặc biệt đối với ngành chăn nuôi lợn, sản xuất thức ăn chăn nuôi và sản xuất thuốc thú y..
Thứ năm, Tiếp tục phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa cũng như với các chính sách kinh tế vĩ mô khác để thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng hợp lý.
Thứ sáu, NHNN chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan Trung ương liên quan và các địa phương, tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại toàn diện đối với các TCTD (bao gồm cả các TCTD yếu kém), trọng tâm là cải thiện và nâng cao năng lực tài chính, hiệu quả hoạt động của bộ máy kiểm soát, kiểm toán nội bộ; từng bước cơ cấu lại hoạt động theo hướng an toàn, hiệu quả, giảm thiểu các hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro; tập trung xử lý dứt điểm các TCTD yếu kém, kiên quyết áp dụng các biện pháp mạnh bao gồm cả biện pháp can thiệp của Nhà nước[9].
Thứ bảy, xây dựng, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tiền tệ ngân hàng, đặc biệt là các văn bản nhằm hoàn thiện khung pháp lý về cơ cấu lại, xử lý nợ xấu, sở hữu chéo và phát triển thị trường mua bán nợ. Tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả công tác thanh tra, giám sát nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước và trật tự, kỷ cương trong lĩnh vực thuộc phạm vi trách nhiệm quản lý của NHNN; bảo đảm sự an toàn, ổn định của hệ thống các TCTD.
Việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ để điều tiết hoạt động ngân hàng và thông qua đó điều tiết các hoạt động kinh tế là những hoạt động thường ngày, tuy nhiên để vận hành các công cụ này một cách có hiệu quả thì mặc dù luôn phải tuân thủ những nguyân tắc nhất định song mặt khác lại không thể rập khuôn, máy móc mà rất cần sự sáng suốt, linh hoạt và nhạy bén. Chính sách tiền tệ là công cụ góp phần vào kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Đây là một mục tiêu quan trọng, hàng đầu của chính sách tiền tệ nước ta luôn được Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đặt ra. Điều này được thể hiện qua các Báo cáo kinh tế-xã hội của Chính phủ 5 năm 2011-2015 và 2016-2020 đã luôn thể hiện rõ vai trò của chính sách tiền tệ. Do đó, với tình hình phát triển kinh tế luôn có sự thay đổi như hiện nay, các công cụ điều tiết chính sách tiền tệ cần được sử dụng linh hoạt, hợp lý và phù hợp với tình hình đất nước trong từng giai đoạn cụ thể.
[1] Xem Khoản 1 Điều 3 Luật NHNN 2010
[2] Xem Điều 3 Luật Ngân hàng nhà nước 2010
[3] Nghị quyết 77/2014/QH13 ngày 10/11/2014 về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 2015
[4] Chỉ thị 01/2015/CT-NHNN ngày 27/01/2015 về tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ và đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả năm 2015
[5] Bài viết Những điểm sáng ngân hàng đăng trên:http://tapchitaichinh.vn/thi-truong-tai-chinh/vang-tien-te/nhung-diem-sang-nganh-ngan-hang-2015-74664.html
[6] Bài viết Những điểm sáng ngân hàng đăng trên:http://tapchitaichinh.vn/thi-truong-tai-chinh/vang-tien-te/nhung-diem-sang-nganh-ngan-hang-2015-74664.html
[7] TS. Nguyễn Viết Lợi – Viện trưởng Viện Chiến lược và chính sách tài chính, Bộ Tài chính, Chính sách tiền tệ năm 2016 và triển vọng năm 2017, Tạp chí Ngân hàng số 1/2017.
[8] Thông tin cung cấp cho báo chí tại Hội nghị trực tuyến triển khai nghị quyết của quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu và quyết định của thủ tướng chính phủ phê duyệt đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020
[9] Bài viết thông tin về điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng 5 tháng đầu năm 2017 đăng trên www.sbv.gov.vn
Tham khảo thêm:
- Phân tích mối quan hệ của công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư với ngân hàng thương mại trong hoạt động đầu tư và đề xuất ý kiến pháp lý nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động đầu tư tài chính của các chủ thể nêu trên
- Thủ tục đầu tư theo Luật đầu tư 2014 và sự phát triển của Luật Đầu tư 2014 so với Luật Đầu tư 2005
- Biện pháp bảo lãnh phân tích quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng
- Doanh nghiệp cổ phần A có quyền sử dụng 5ha đất trong khu công nghệ cao X để thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất linh kiện điện tử
- Phân tích và tư vấn những vấn đề pháp lý có liên quan đến quyền có lối đi qua bất động sản liền kề để đi ra đường công cộng
- Bình luận khái niệm tranh chấp lao động theo quy định của BLLĐ 2012
- Quá trình hình thành và phát triển công chứng ở Việt Nam
- So sánh nhãn hiệu với chỉ dẫn địa lý
- Năm 2010, Công ty X (Việt Nam) nộp đơn đăng ký nhãn hiệu MANLI và hình cho dược phẩm (nhóm 05), tuy nhiên đơn bị từ chối vì bị coi là tương tự với nhãn hiệu MANLYX của công ty Y (Thái Lan) đã được bảo hộ cũng cho sản phẩm dược phẩm nhóm 05
- Đánh giá tác động của quy định pháp luật về Ưu đãi, hỗ trợ hoạt động bảo vệ môi trường tới hoạt động quản lý và bảo vệ môi trường (Lý luận và quy định pháp luật hiện hành)