BẢO VỆ QUYỀN DÂN SỰ THÔNG QUA CƠ QUAN CÓ THẨM QUYỀN

PGS.TS. NGUYỄN QUỐC SỬU – Học viện Hành chính Quốc gia

 
BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015
Điều 1. Bảo vệ quyền dân sự thông qua cơ quan có thẩm quyền

1. Tòa án, cơ quan có thẩm quyền khác có trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân.

Trường hợp quyền dân sự bị xâm phạm hoặc có tranh chấp thì việc bảo vệ quyền được thực hiện theo pháp luật tố tụng tại Tòa án hoặc trọng tài.

Việc bảo vệ quyền dân sự theo thủ tục hành chính được thực hiện trong trường hợp luật quy định. Quyết định giải quyết vụ việc theo thủ tục hành chính có thể được xem xét lại tại Tòa án.

2. Tòa án không được từ chối giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng; trong trường hợp này, quy định tại Điều 5 và Điều 6 của Bộ luật này được áp dụng.

Điều 2. Hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền

Khi giải quyết yêu cầu bảo vệ quyền dân sự, Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác có quyền hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền.

Trường hợp quyết định cá biệt bị hủy thì quyền dân sự bị xâm phạm được khôi phục và có thể được bảo vệ bằng các phương thức quy định tại Điều 11 của Bộ luật này.

CIVILLAWINFOR – Cập nhật

Trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền trong bảo vệ quyền dân sự là một trong mười vấn đề trọng tâm cần lấy ý kiến nhân dân theo Quyết định số 01/QĐ-TTg ngày 02-01-2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân đối với Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi).

Nội dung trên được quy định trong Dự thảo lần 4, tại “Điều 19. Bảo vệ quyền dân sự thông qua cơ quan có thẩm quyền”. Tiền đề của quy định này là Điều 9 trong Bộ luật Dân sự năm 2005; song quy định tại đó có tính nguyên tắc không đặt ra trách nhiệm cụ thể của cơ quan có thẩm quyền trong trường hợp quyền dân sự của cá nhân, tổ chức bị xâm phạm, bị tranh chấp.

Một yếu tố khác, Khoản 2 Điều 19 Dự thảo lần 4 quy định tòa án không được từ chối yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có luật quy định. Trong trường hợp này, tập quán, áp dụng tương tự pháp luật, án lệ và lẽ công bằng là các phương thức được dùng để giải quyết. Một quy định mới luôn kèm theo những phản hồi mới, từ đối tượng điều chỉnh lẫn những người thi hành pháp luật.

Trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền trong bảo vệ quyền dân sự của cá nhân, tổ chức

Cá nhân, tổ chức trong trường hợp phát sinh tranh chấp, bị xâm phạm quyền dân sự bởi chủ thể khác, có thể dùng hai phương thức bảo vệ sau: tự mình bảo vệ hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền bảo vệ (Điều 16 Dự thảo lần 4). Trong trường hợp yêu cầu cơ quan có thẩm quyền bảo vệ thì được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 19 Dự thảo lần 4, như sau:

“1. Tòa án, cơ quan có thẩm quyền khác có trách nhiệm bảo vệ quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân.

Trường hợp quyền dân sự bị vi phạm hoặc có tranh chấp thì việc bảo vệ quyền được thực hiện theo pháp luật tố tụng tại Tòa án hoặc trọng tài.

Việc bảo vệ quyền dân sự theo thủ tục hành chính được thực hiện trong những trường hợp luật định. Quyết định giải quyết vụ việc theo thủ tục hành chính có thể được xem xét lại tại Tòa án”.

Các cơ quan có thẩm quyền bao gồm: tòa án, trọng tài và cơ quan hành chính. Cũng theo quy định này, quyết định giải quyết vụ việc theo thủ tục hành chính có thể được xem xét lại tại tòa án. Như vậy, tòa án sẽ là cơ quan có thẩm quyền chung quyết định trong việc bảo vệ quyền dân sự của cá nhân, tổ chức. Xét về các chủ thể gây tranh chấp, vi phạm các quyền dân sự có thể là cá nhân, tổ chức và cơ quan hành chính. Các tranh chấp, vi phạm nếu đến từ cơ quan hành chính sẽ tạo ra hai nghi vấn sau: (1) Là các tranh chấp, vi phạm mà có một bên chủ thể chính là người có trách nhiệm bảo vệ quyền dân sự. Vậy giới hạn của nó, để không trở thành sự hạn chế quyền trong hoạt động bảo vệ quyền dân sự của cá nhân, tổ chức. (2) Các vi phạm của cơ quan hành chính thông qua các quyết định hành chính, hành vi hành chính sẽ trở thành đối tượng của luật tố tụng hành chính.

Hoạt động của tòa án ở Việt Nam xét từ góc độ thẩm quyền trong bảo vệ quyền dân sự, gồm: (1) Xét xử các tranh chấp, vi phạm quyền dân sự của các cá nhân, tổ chức (khoản 1 Điều 19 và Điều 20 Dự thảo lần 4); (2) Phát hiện và kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền thay đổi các quyết định, hành vi công vụ nhằm bảo vệ quyền lợi của cá nhân, tổ chức và bảo vệ nền pháp lý (khoản 7 Điều 2 Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm 2014).

Để thực hiện hoạt động thứ nhất, khoản 1 Điều 19 Dự thảo lần 4 trao cho tòa án các thẩm quyền: bảo vệ quyền dân sự bằng con đường tố tụng tại tòa án và xem xét lại quyết định giải quyết vụ việc theo thủ tục hành chính; khi giải quyết yêu cầu bảo vệ quyền dân sự, tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác có quyền hủy bỏ quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó (Điều 20 Dự thảo lần 4).

Để thực hiện hoạt động thứ hai, thông qua quá trình xét xử, tòa án phát hiện và kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ văn bản pháp luật trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức; yêu cầu cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm trả lời tòa án kết quả xử lý văn bản pháp luật bị kiến nghị theo quy định của pháp luật làm cơ sở để tòa án giải quyết vụ án (khoản 7 Điều 2 Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm 2014).

Hoạt động của trọng tài thông qua thẩm quyền giải quyết các tranh chấp, gồm: (1) tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; (2) tranh chấp giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại; (3) tranh chấp giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài. (Điều 2 Luật Trọng tài thương mại năm 2010).

Phán quyết của trọng tài là chung thẩm. Trong trường hợp các bên tranh chấp đã có thỏa thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại tòa án thì tòa án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được, hoặc thỏa thuận trọng tài thông qua việc lựa chọn một tòa án để giải quyết.

Việc xác định cơ quan thi hành quyết định trọng tài được quy định tại Điều 8 Luật Trọng tài thương mại năm 2010. Cụ thể:

– Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài là Cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh nơi Hội đồng trọng tài ra phán quyết;

– Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Hội đồng trọng tài là Cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh nơi biện pháp khẩn cấp tạm thời cần được áp dụng.

Việc áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp được quy định tại Điều 14 Luật Trọng tài thương mại năm 2010. Cụ thể:

– Đối với tranh chấp không có yếu tố nước ngoài, Hội đồng trọng tài áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết tranh chấp;

– Đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài, Hội đồng trọng tài áp dụng pháp luật do các bên lựa chọn; nếu các bên không có thỏa thuận về luật áp dụng thì Hội đồng trọng tài quyết định áp dụng pháp luật mà Hội đồng trọng tài cho là phù hợp nhất;

– Trường hợp pháp luật Việt Nam, pháp luật do các bên lựa chọn không có quy định cụ thể liên quan đến nội dung tranh chấp thì Hội đồng trọng tài áp dụng tập quán quốc tế để giải quyết tranh chấp nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng đó không trái với các nguyên tắc của pháp luật Việt Nam.

Hoạt động của cơ quan hành chính

Dạng thức không hành động: Nghĩa vụ này đòi hỏi các cơ quan hành chính phải tôn trọng quyền dân sự của cá nhân, tổ chức, nghĩa là kiềm chế sự can thiệp, kể cả trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc hưởng thụ những quyền này của các chủ thể. Đây còn được gọi là dạng thức nghĩa vụ thụ động. Điều này không đòi hỏi các cơ quan hành chính phải chủ động đưa ra sáng kiến, biện pháp hay chương trình nhằm hỗ trợ cá nhân, tổ chức trong việc hưởng dụng quyền.

Dạng thức cung cấp cơ sở bảo vệ quyền: Nghĩa vụ này đòi hỏi cơ quan hành chính phải có những giải pháp bảo đảm cho cá nhân, tổ chức được hưởng thụ đầy đủ quyền của mình. Đây là một dạng thức nghĩa vụ chủ động, nó luôn đòi hỏi Nhà nước phải cải tiến phương thức nhằm giúp cho công dân được hưởng thụ ở mức cao nhất có thể các quyền dân sự. Cụ thể, xác nhận quyền dân sự của cá nhân, cơ quan, tổ chức thông qua quyết định hành chính, hành vi hành chính (gọi chung là thủ tục hành chính). Hoạt động này cung cấp các bảo đảm pháp lý cho các quyền, là cơ sở để cá nhân, tổ chức bảo vệ quyền của mình khi xảy ra tranh chấp, xâm phạm.

Dạng thức ngăn chặn các tranh chấp, vi phạm giữa các chủ thể: Nghĩa vụ này đòi hỏi cơ quan hành chính phải ngăn chặn sự vi phạm các quyền dân sự của cá nhân, tổ chức bởi bên thứ ba. Đây cũng là dạng thức của nghĩa vụ chủ động. Để thực hiện trách nhiệm này, cơ quan hành chính phải chủ động đưa ra những biện pháp và xây dựng những cơ chế phòng ngừa, xử lý những vi phạm. Khoản 2 Điều 16 Dự thảo lần 4 cung cấp những phương thức rất cụ thể trong trường hợp này. Đó là: Cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm:

– Công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền của cá nhân, tổ chức; Buộc bên thứ ba chấm dứt hành vi vi phạm; Buộc bên thứ ba xin lỗi, cải chính công khai; Buộc bên thứ ba thực hiện nghĩa vụ; Buộc bên thứ ba bồi thường thiệt hại; Hủy bỏ các quyết định cá biệt xâm phạm quyền của cá nhân, tổ chức.

Các trường hợp cơ quan có thẩm quyền được phép hạn chế thực hiện quyền

Về nguyên tắc, trách nhiệm bảo đảm quyền dân sự của các cơ quan có thẩm quyền là liên tục. Tuy nhiên, thông lệ của quốc tế cho rằng, trong một số tình huống đe dọa đến an ninh của quốc gia thì các cơ quan có thẩm quyền có thể áp dụng một số biện pháp hạn chế quyền của cá nhân, tổ chức, song phải đáp ứng những điều kiện nhất định và lập tức phải dỡ bỏ việc hạn chế ngay lập tức khi sự đe dọa an ninh quốc gia không còn nữa. Thực chất, các biện pháp trên là sự tạm đình chỉ một số quyền dân sự. Những biện pháp đó cụ thể gồm: thiết quân luật (có thể trên toàn quốc hoặc cấp địa phương), hạn chế một số quyền sở hữu đối với một số tài sản, cấm đi lại, xuất, nhập cảnh,…

Dưới cách tiếp cận chung của các quyền dân sự – chính trị, luật quốc tế đòi hỏi những trường hợp hạn chế quyền chỉ được thực hiện trong những tình thế sau:

Một là, các biện pháp áp dụng thực sự xuất phát từ tình huống khẩn cấp, do tình hình bắt buộc để vãn hồi nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia. Ủy ban quyền con người của Liên hợp quốc đã đưa ra hướng dẫn dùng để xác định tính hợp lý của tuyên bố về tình trạng khẩn cấp quốc gia. Nó chỉ bao gồm tình huống: xảy ra thảm họa thiên tai, bạo động hoặc tình trạng chiến tranh.

Hai là, các biện pháp áp dụng không được trái với những nghĩa vụ khác xuất phát từ luật pháp, thông lệ quốc tế. Nó không được diễn ra dựa trên căn nguyên của phân biệt chủng tộc, tôn giáo hoặc nguồn gốc xã hội.

Ba là, kể cả trong tình trạng khẩn cấp, các cơ quan có thẩm quyền cũng không được đình chỉ hay vi phạm về “các quyền không thể bị hạn chế”. Cụ thể như: quyền không bị bỏ tù chỉ vì lý do không hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng, quyền không bị áp dụng hồi tố trong tố tụng hình sự, không được hình sự hóa các quan hệ dân sự, quyền được công nhận là thể nhân trước pháp luật, quyền tự do tư tưởng.

Bốn là, khi áp dụng các biện pháp này cần phải đặt ra những giới hạn rõ ràng về việc áp dụng. Đó là, chỉ những quyền thỏa đáng mới được áp dụng, đối tượng cần áp dụng và thời hạn áp dụng. Đồng thời, cần thiết phải công khai trước cộng đồng quốc gia và quốc tế.

Một số trường hợp được giới hạn các quyền dân sự

Giới hạn áp dụng một số quyền dân sự là quy định chung được ghi nhận trong một số điều ước quốc tế về quyền con người, cho phép các quốc gia thành viên áp đặt một số điều kiện đối với việc hưởng thụ quyền của cá nhân, tổ chức. Đương nhiên, việc giới hạn này cũng cần phải đáp ứng những nguyên tắc nhất định và có những loại quyền không thể bị giới hạn bởi bất cứ lý do gì. Các nguyên tắc để có thể đặt ra giới hạn, bao gồm:

Thứ nhất, những giới hạn đó phải được quy định trong pháp luật quốc gia. Yêu cầu này nhằm để tránh sự tùy tiện trong việc giới hạn quyền của các cơ quan có thẩm quyền. Đặc biệt với cơ quan hành chính, vừa là chủ thể bảo vệ quyền, vừa là chủ thể có khả năng xâm phạm quyền lớn nhất. Đối với tòa án, là cơ quan chung thẩm trong phán quyết về tranh chấp, xâm phạm trong các vụ việc dân sự thì giới hạn nằm trong chính quy trình tố tụng được thực hiện bởi tòa án. Với mục đích các thủ tục tố tụng không đặt ra các giới hạn, ngoại lệ của việc thực hiện quyền dân sự của cá nhân, tổ chức.

Thứ hai, những giới hạn đặt ra không được trái với bản chất của các quyền có liên quan. Yêu cầu này nhằm bảo đảm những giới hạn đặt ra không làm tổn hại đến khả năng của các cá nhân có liên quan trong việc hưởng thụ các quyền đó. Do bản chất phức tạp của đời sống dân sự nên việc đánh giá một quyền có thể bị giới hạn hay không là một công việc khó khăn, nên nó cần thiết phải được đặt trong những bối cảnh cụ thể.

Thứ ba, việc đặt ra giới hạn quyền luôn phải đánh giá sự cần thiết của nó nhằm mục đích duy nhất là để thúc đẩy phúc lợi chung của cộng đồng. Do đó, việc giới hạn chỉ nên đặt ra để: bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ quyền lợi của những chủ thể khác, bảo vệ sự an toàn của cộng đồng, bảo vệ sức khỏe hoặc đạo đức của cộng đồng.

Một số quyền dân sự cụ thể có thể đặt ra các giới hạn áp dụng như:

– Quyền tự do đi lại, cư trú, xuất nhập cảnh; Quyền được xét xử công khai; Quyền tự do ngôn luận; Quyền sở hữu một số loại tài sản; Quyền kết hôn./.

SOURCE: TẠP CHÍ CỘNG SẢN ĐIỆN TỬ

Trích dẫn từ: http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Xay-dung-nha-nuoc-phap-quyen/2015/32943/Bao-ve-quyen-dan-su-thong-qua-co-quan-co-tham-quyen.aspx

Tham khảo thêm:

1900.0191